Ai giết 9 ngư dân Thanh Hóa?

greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread

Các hệ thống truyền h́nh ở Mỹ thỉnh thoảng chiếu những cuốn phim tài liệu về đất nước và con người Việt Nam. Những đoạn phim đầy màu sắc với những chiếc thuyền buồm êm trôi trên mặt vịnh Hạ Long hay đoàn thuyền đánh cá sơn trên mũi tàu hai con mắt tṛn xoe trông ngộ nghĩnh dể thương, đang trở về bến cảng trong ráng trời chiều rực đỏ. Nước Thái B́nh Dương màu xanh đậm và thanh b́nh như chính tên của biển. Tiếng đàn bầu cao vút, tiếng sáo trúc dặt d́u, điệu dân ca Quan Họ Bắc Ninh t́nh tứ. Việt Nam, quả thật là một đất nước thần tiên như Nguyễn Đ́nh Thi khi c̣n sống đă hết lời ca ngợi:

"Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn"

Với người nước ngoài, Việt Nam hẳn nhiên là bức tranh đẹp tuyệt vời và thơ mộng, nhưng với tôi, những h́nh ảnh đó chỉ nói lên một Việt Nam lạc hậu, chậm tiến và đồng thời là những nhắc nhở về cuộc sống đầy tai họa của ngư dân Việt Nam trên biển Đông.

Những khán giả truyền h́nh ngồi trong căn pḥng ấm cúng tiện nghi ở Mỹ, Anh, Đức sẽ không bao giờ biết được bên trong chiếc ghe buồm đang trôi trong suối nhạc êm tai kia là tiếng rên của đám dân chài cùng khổ. Phía dưới cánh buồm vá hàng trăm mảnh đủ màu như chiếc áo của người ăn xin dưới tam cấp chùa Hương, là những con người sống một cuộc đời lam lũ, chưa bao giờ nghe ai nhắc đến hai chữ tương lai. Họ không có đủ cơm để ăn, không đủ áo để mặc, sinh ra ở hầm ghe, ăn đó, ngủ đó, cưới nhau đó, sinh con đẻ cái và lớn lên trong nghèo nàn và thất học cũng từ nơi đó.

Những khán giả truyền h́nh nước ngoài cũng không thể nào hiểu được đời sống của những ngư dân Việt Nam trong những chiếc ghe đánh cá bắng gỗ, gắn những chiếc máy c̣n lại từ thuở hệ thống Liên Xô chưa tan ră, đi sớm về khuya. Những thế hệ ngư dân Việt Nam đời này qua đời khác chịu đựng bao thiên tai khắc nghiệt từ lúc mới sinh ra ra trên nước và không ít trong số họ đă chết theo ḍng nước.

Những khán giả truyền h́nh nước ngoài cũng không biết rằng ngư dân Việt Nam c̣n chịu đựng một tai họa khác, chỉ có tại Việt Nam. Trong 30 năm qua, mỗi chuyến trở về của những ngư dân Hải Pḥng, Thái B́nh, Thanh Hóa v.v. như được chiếu trên màn ảnh truyền h́nh, c̣n là một lần sống sót, không phải sống sót từ những trận băo tố ngoài khơi, những ngọn sóng to, những cơn gió lớn nhưng sống sót từ những viên đạn không một chút xót thương của những người "vừa là đồng chí vừa là anh em" Trung Quốc. Ôi mỉa mai làm sao khi nghe những em bé học sinh Việt Nam tập hát: "Việt Nam Trung Hoa, núi liền núi sông liền sông, mối t́nh hữu nghị sáng như rạng đông, sớm sớm nghe tiếng gà gáy rộn, anh nh́n em đó, em nh́n anh đây" của Đỗ Nhuận trong lúc bà con thân thuộc của các em mỗi ngày vẫn chết trong các trận đụng độ thường xuyên xảy ra dọc vùng biên giới giữa hai nước.

Những năm sau thời kỳ "đổi mới" tin tức được phổ biến rộng rải hơn và những người chết trong vịnh Bắc Bộ c̣n được ghi lại dăm hàng trên mặt báo, nhưng những năm trước đó th́ sao? Những tên cướp biển nói tiếng Quan Thoại trong 30 năm qua đă giết bao nhiêu ngư dân vô tội? Không ai biết. Nỗi bất hạnh của người ngư dân Việt Nam đă âm thầm ḥa tan vào sự chịu đựng triền miên của dân tộc Việt Nam như máu của họ đă và đang ḥa tan vào nước biển Đông xanh thẳm.

Biến cố ngày 8 tháng Giêng lần nữa là một chứng tích đau ḷng cho cuộc sống đầy bất hạnh của ngư dân Việt Nam và là một nhắc nhở cho mối nhục chung mà bất cứ ai c̣n nhận ḿnh là người Việt Nam phải chịu đựng.

Đọc những lời tuyên bố gọi là phản đối của ông Lê Dũng, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, tôi có cảm tưởng ông ta đang nói về một tai nạn giao thông hay một trường hợp ngộ sát nào đó hơn là một cuộc thảm sát với 9 ngư dân bị bắn thủng ngực, tài sản bị tàn phá và 8 ngư dân khác chưa biết số phận ra sao. Đơn giản, bởi v́ hơn ai hết ông Lê Dũng biết rằng việc chỉ trích nặng lời chỉ càng thêm tổn hại cho mối quan hệ về sau giữa hai nước chứ chẳng làm ǵ Trung Quốc được. Trong đầu óc thiên triều của giới lănh đạo Trung Quốc, Việt Nam chỉ là kẻ ăn cắp bản quyền "đổi mới" của họ chứ chẳng tài ba ǵ để đáng được nể v́. Bằng chứng, Khổng Tuyền, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc chẳng những không chối căi việc chính hải quân Trung Quốc đă bắn chết 9 ngư dân mà c̣n dọa sẽ đưa 8 ngư dân bị bắt ra ṭa. Chính phủ Việt Nam, cuối cùng, biết đâu lại phải sang tận Bắc Kinh năn nỉ xin tha cho 8 đồng bào hiện c̣n đang bị giam giữ, nói chi đến chuyện bồi thường hay trừng phạt những kẻ sát nhân.

Đọc những lời kể của những đồng bào may mắn chạy thoát mới biết những nhận thức chính trị và lịch sử của họ cũng nghèo nàn và tội nghiệp như chiếc ghe đánh cá họ đang dùng. Phái viên báo Thanh Niên ngày 15 tháng 1 năm 2005, viết lại lời ông Nguyễn Văn Hoàn, chủ của chiếc tàu bị tấn công: "Bất kể ngày đêm, lúc nào tàu của ông cũng treo cờ Tổ quốc và luôn tuân thủ mọi quy định của pháp luật khi hoạt động ngoài khơi", thế nhưng, "các tàu Trung Quốc vẫn tiếp tục truy sát, vừa đuổi, vừa bắn tàu của ông gần 3 giờ đồng hồ mới chịu quay trở ra". Người ngư dân chất phác xă Ḥa Lộc, tỉnh Thanh Hóa kia nghĩ rằng khi treo "cờ Tổ quốc", biểu tượng của nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, và "tuân thủ pháp luật khi hoạt động ngoài khơi" hải quân Trung Quốc ắt phải è dè và kính trọng. Đáng thương thật, ông ta không biết rằng ch́nh v́ "treo cờ Tổ quốc" nên chiếc ghe máy thô sơ của ông mới bị đuổi bắn suốt 3 giờ. Nói thẳng th́ bảo là phản động, nhưng phải chi ông đừng treo "lá cờ tổ quốc" đó hay treo đại lá cờ Phi, cờ Thái, thậm chí cờ trắng th́ biết đâu bà con ngư dân Ḥa Lộc c̣n có cơ may sống sót.

Bác Hoàn có lẽ chưa đọc Người Trung Quốc xấu xí nên không biết Bá Dương đă nhận xét về thói xấu của người dân nước ông: "Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đă đánh nhau rồi th́ cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết." Cuộc chiến Việt - Trung đă chấm dứt hơn hai chục năm qua nhưng sự căm giận đối với Việt Nam vẫn c̣n hằn sâu trong ḷng giới lănh đạo Cộng sản Trung Quốc. Những ai có dịp nghe chương tŕnh Việt ngữ của đài Bắc Kinh trong cuộc chiến Việt Trung năm 1978, chắc c̣n nhớ Trung Quốc vừa kể ơn và vừa kể tội đảng Cộng Sản Việt Nam không sót một điều ǵ. Trong quan điểm của giới lănh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, tất cả những ǵ Việt Nam có ngày nay, từ túi lương khô, khẩu súng trường cho đến cả "Độc lập, Tự do, Hạnh phúc" cũng đều do sự hy sinh của nhân dân Trung Quốc.

Bác Hoàn cũng không có Internet nên không đọc được lời b́nh luận của Frank Ching, đặc phái viên báo Kinh Tế Viễn Đông để biết sự cô đơn của Việt Nam trong cộng đồng thế giới. Cách đây mười năm, Frank Ching, đă quan sát vai tṛ của quốc tế trong cuộc xung đột Hoàng Sa và Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc: "Không ai trong cộng đồng thế giới muốn can dự vào việc giải quyết cuộc xung đột giữa Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lư do rất rơ ràng: Văn bản ngoại giao và sự công nhận (ư tác giả muốn viết đến lá thư công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Hoàng Sa do Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa Phạm Văn Đồng kư năm 1958) của giới lănh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam không thể được xóa bỏ bởi một nước nhỏ như Việt Nam lại muốn chơi tṛ lường gạt Trung Quốc. (No one in the world community want to step in to settle the dispute between Communist Vietnam and PRC. The reason is very clear: diplomatic note and recognition by Vietnamese Communists can’t be erased by a small country like VN who has wanted to play a trick cheating China - Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994). Mười năm sau, vị trí chính trị của Việt Nam trong trường bang giao quốc tế tuy mở rộng hơn, nhưng cảm t́nh thế giới dành cho Việt Nam cũng không khác ǵ mười năm trước. Mặc dù là hội viên của cả Liên Hiệp Quốc và ASEAN, hai tổ chức quốc tế uy tín nhất, không một tổ chức nào buông một câu có lợi cho Việt Nam trong vụ thảm sát vừa qua.

Người ngư dân Ḥa Lộc cũng không đọc Carl Thayer để biết Trung Quốc đánh giá khả năng quân sự của Việt Nam thấp đến mức độ nào. Những h́nh ảnh mà ông biết về một "quân đội nhân dân anh hùng, bách chiến bách thắng" chỉ c̣n trong phim ảnh. Tác giả của những kịch bản đó là những cụ già đang ngồi mơ một giấc mơ độc lập tự do vẫn chưa thành hiện thực trong những khu nhà tập thể chật hẹp ở Ba Đ́nh, Đống Đa, Thanh Tŕ. Sau cuộc chiến 29 ngày năm 1978, tương quan quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc đă thay đổi và đến nay sự chênh lệch đă xa đến mức Việt Nam không c̣n là một đe dọa quân sự đối với Trung Quốc nữa. Bằng chứng mới nhất, mặc dù giết hàng chục người và bắt giữ hàng chục ngư dân Việt Nam khác vào sáng ngày 8 tháng 1, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Quốc chỉ lên tiếng vào ngày 15 tháng 1, tức sau khi Việt Nam chính thức gởi công hàm phản đối. Nếu Việt Nam không lên tiếng có lẽ Trung Quốc cũng chẳng buồn nhắc tới làm ǵ. Tại sao? Có thể họ nghĩ rằng, Việt Nam lại cố nhịn nhục bỏ qua như bao nhiêu lần trước và cũng có thể họ xem việc giết dăm ba người Việt chỉ là chuyện nhỏ. Trong cả hai trường hợp đều chứng tỏ sự khinh thường của Trung Quốc đối với Việt Nam.

Việt Nam phải làm ǵ để ngăn chận hiểm họa Trung Quốc?

Ba tuần qua, báo chí và đồng bào trong nước đă mạnh dạn hơn trong việc lên án hành động giết người dă man của hải quân Trung Quốc và ba tuần qua, đồng bào Việt ở hải ngoại cũng lên tiếng kết án, gởi thư phản đối Trung Quốc qua trung gian sứ quán hay lănh sự Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa tại Mỹ, Anh, Pháp v.v. đồng thời quy tội bất lực, không bảo vệ được sinh mạng người dân cho nhà chức trách Việt Nam. Cả hai phản ứng đều là phát xuất từ niềm tự ái dân tộc và t́nh cảm tự nhiên của t́nh nghĩa đồng bào, thế nhưng không phải là biện pháp hữu hiệu để ngăn chận hành động xâm lược của Trung Quốc. Thành thật mà nói, với điều kiện kinh tế, chính trị, quân sự quá khiêm nhượng, nếu không muốn nói là nghèo nàn lạc hậu của Việt Nam hiện nay, ngoài việc kết án, biểu t́nh, phản đối, câu trả lời vẫn là "Không làm ǵ ngăn chận được".

Câu hỏi tuy quan trọng, nhưng một câu hỏi khác, tôi nghĩ c̣n quan trọng hơn, đó là, mỗi chúng ta thật sự muốn ǵ cho đất nước ḿnh? Sau gần 30 năm, người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước, vẫn chưa thật sự trở thành khối đoàn kết có khả năng thay đổi vận mệnh của chính ḿnh. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, nhân dân Đức đoàn kết để xây dựng một nước Đức thống nhất sau gần nửa thế kỷ phân chia, trong khi đó, người Việt Nam sống trên nước Đức, dù cùng chán ghét độc tài, cùng tranh đấu cho nhân quyền và tự do dân chủ tại Việt Nam, vẫn c̣n nh́n nhau bằng cặp mắt e ngại, hoài nghi. Tại sao? Phải chăng chúng ta thù ghét nhau đến thế mức không thể nh́n mặt nhau? Phải chăng dân tộc chúng ta có truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm nhưng không có khả năng hóa giải nội thù? Phải chăng dân tộc Việt Nam có truyền thống bảo vệ đất nước nhưng không có khả năng xây dựng đất nước? Không, tôi không nghĩ thế. Người Việt chưa đoàn kết bởi v́ chúng ta chưa cùng tắm chung trong một ḍng tâm thức Việt Nam, chưa cùng chia xẻ một suy nghĩ về tương lai và chưa thấy giống nhau khi đối diện với những nhu cầu chung của đất nước. Nói vắn tắt, chúng ta chưa thật sự có một ước muốn giống nhau cho đất nước ḿnh.

Chọn lựa duy nhất để phá vỡ những bế tắc tư tưởng trong cộng đồng dân tộc hôm nay, không phải là đi xa hơn nữa, không phải rập khuôn từ ai khác, nhưng là trở về. Sau bao năm chạy theo những ảo vọng, những chân trời không có thực, những ư thức hệ ngoại lai, hơn bao giờ hết, mỗi người Việt Nam phải tự thắp sáng niềm tin vào dân tộc trong ḷng ḿnh bằng một cuộc hành hương trở về với các giá trị tự chủ, nhân bản và khai phóng đă hun đúc nên gịng giống Đại Việt như người Do Thái trở về bên chân tường Wailing Wall hay trên đồi Mount Masada linh thiêng của họ.

Ngoài các giá trị tinh thần và truyền thống, tổ tiên đă để lại cho chúng ta một gia tài vô cùng phong phú với tất cả phương tiện cần thiết để đưa đất nước Việt Nam thành một cường quốc văn minh và hiện đại. Chúng ta có một lănh thổ đầy ắp tài nguyên trải dài trên 3 ngàn cây số biển. Chúng ta có khối nhân lực lao động với 65 phần trăm dân số dưới 30 tuổi. Chúng ta có hàng triệu tài năng đă và đang hấp thụ các nền giáo dục khoa học kỹ thuật hiện đại khắp thế giới. Cái duy nhất chưa có đó là một cơ hội. Và cơ hội sẽ không do ai ban cho, không do ai viện trợ, nhưng chính chúng ta, chứ không ai khác, phải là những người tạo ra cơ hội cho dân tộc ḿnh. Con đường phục hưng Việt Nam cũng không phải là độc đạo của riêng ai mà là của nhiều người, nhiều thế hệ, nói chung, của tất cả người Việt yêu nước dù đang ở đâu trên trái đất nầy.

Nhân chuyện ngư dân Thanh Hóa và cũng trên đường về với uyên nguyên dân tộc, chúng ta hăy cùng nhau đi thăm một làng đánh cá khác, không phải Ḥa Lộc, Thanh Hóa, nhưng là một làng nhỏ ở xă Tức Mạc, phủ Thiên Trường, Nam Định. Từ nơi đó, hơn 800 năm trước, con cháu của những ngư dân họ Trần, khởi nghiệp trên những chiếc thuyền nan, sống bằng con cá con tôm, nhưng không lâu, đă lănh đạo đất nước để đánh bại một đạo quân Nguyên hùng mạnh gấp nhiều lần và viết nên một trong những trang sử hào hùng nhất của lịch sử Việt Nam.

Trong cuộc kháng Nguyên lần thứ hai năm 1285, cháu nội của một ngư dân làng Tức Mạc, Nam Định, có tên là Trần Quốc Tuấn đă viết trong Hịch Tướng Sĩ: "Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sĩ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ mà không biết căm; hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước; hoặc ham săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, th́ cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo giáp; mẹo cờ bạc sao cho dùng nổi được quân mưu; dẫu rằng ruộng lắm tiền nhiều, thân ấy ngh́n vàng khôn chuộc" (Hịch Tướng Sĩ, bản dịch của Trần Trọng Kim). Nếu chúng ta thắp một nén hương trên bàn thờ đức Hưng Đạo Vương để xin phép ngài được thay câu "chủ nhục" thành "quốc nhục", thay "việc chọi gà" thành "việc đá banh", thay câu "nghĩ về quyền lợi riêng mà quên việc nước" bằng "nghĩ về quyền lợi Đảng mà quên việc nước", thay câu "thích rượu ngon, mê tiếng hát" bằng câu "tham ô, hủ hóa, lạm dụng của công" cho thích hợp với sinh hoạt xă hội Việt Nam ngày nay, sau đó, phổ biến đến mọi người dân, tận hang cùng ngơ hẻm, từ Bắc đến Nam, trong nước ngoài nước, trong Đảng ngoài Đảng, để học thuộc ḷng và tự kiểm điểm mỗi ngày, tôi nghĩ, đó cũng là một cách hay để đánh thức lương tâm của những người lănh đạo và cũng của những ai đang mải mê trong cuộc chơi hay c̣n ch́m trong giấc ngủ dài.

Lịch sử đă để lại nhiều bài học đầy xương máu. Họa phương Bắc của bốn ngàn năm trước và họa phương Bắc của ngày nay, phương pháp hẳn nhiên đổi khác nhưng bản chất vẫn như xưa. Nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn muốn Việt Nam nằm trong ṿng kiểm soát của họ không những về kinh tế, chính trị mà cả về văn hóa, tư tưởng như họ đă cố làm đối với tổ tiên ta ngày trước và đang làm đối với hai dân tộc Nội Mông và Tây Tạng hiện nay. Về phía Việt Nam, chính sách phát triển đất nước theo "định hướng xă hội chủ nghĩa" cũng không khác ǵ bao nhiêu so với chính sách bảo thủ trong bốn bức tường thành Nho Giáo thời nhà Nguyễn. Cả hai không những đều là sản phẩm của Trung Quốc mà c̣n chứng tỏ sự lạc hậu, lỗi thời, tự cô lập với ḍng phát triển đa phương của nhân loại và không mở ra một lối thoát nào cho tương lai dân tộc. Một em học sinh lớp mẫu giáo cũng biết rằng nếu chỉ theo đuôi người khác, suốt đời sẽ chẳng bao giờ qua mặt được ai.

Hoàn cảnh xă hội mỗi thời đại tuy khác nhau nhưng trách nhiệm của người dân đối với sự an nguy của dân tộc vẫn không thay đổi. Tôi thật sự tin nếu mỗi chúng ta biết bước xuống khỏi những chiếc xe ngoại đắt tiền, vất đi những bằng tiến sĩ giấy, từ bỏ các chức vị đảng viên, bí thư, đừng mỏi cổ trông chờ sự ban ơn cứu giúp của người Mỹ, người Nga, để cùng về cầm lại mái chèo như tổ tiên đă từng làm từ ngàn năm trước, con thuyền dân tộc sẽ vượt qua sơn sóng lớn và mở đường ra biển cả mênh mông. Một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Quốc mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lănh thổ Việt Nam. Nếu không làm được thế, rồi không chỉ 9 ngư dân Ḥa Lộc, không chỉ Hoàng Sa, Trường Sa, mà cả dân tộc lại sẽ ch́m đắm trong họa đồng hóa của thời đại mới. Và khi đó, đừng đổ thừa cho Trung Quốc mà chính sự khiếp nhược, ươn hèn, vong thân, mê muội trong mỗi chúng ta đă giết chết chính ḿnh và dân tộc ḿnh.

Trần Trung Đạo

-- LeTrungNam (TrungNam@VCHC.org), January 28, 2005

Answers

Response to Ai giết 9 ngư dĂ¢n Thanh HĂ³a?

Đảng Mafia Đỏ Việt Nam đi làm tôi mọi cho tụi Ba Tầu mà dân mới bị khô? như thế này, trong khi các quan chức phủ thủ nợn th́ im lặng như không có ǵ xảy ra, họ c̣n đề cao t́nh hữu nghi chủ tớ 55 năm c̣n dân kết kệ dân.

Họ th́ quần là aó lụa, đi Tây đi U mà xưa họ chí trá với da6n là kẻ thù của nhan dân bọn Tư Bản Chủ Nghĩa, XHCN chỉ mặc quần áo vá, Kaki Nam Định, đi dép râu lốp xe Molotova, hay Vạn Lư Trường Thành, đầu đội nón kối, tay sách AK Trung Cộng, lựu đạn chầy đi làm nghĩa vụ quốc tệ

C̣n đời sống đà có Hậu Phương lớn là Tầu và Liên Sô lo, đây cũng là lư do tại săo ḿnh gọi Hồ Chó Minh đă biến dân làm nô lệ cho Giặc Cờ Đỏ NGa+HOa cả 70 năm làm sao mà Xă Hội, Trí Thưc Con người Việt Nam tiến bộ được

-- (Sáu Bi Da France @ Sài G̣n.Net), January 28, 2005.


Moderation questions? read the FAQ