Lột Trần Huyền Thoại Hồ Chí Minh

greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread

Lột Trần Huyền Thoại Hồ Chí Minh

1.- HUYỀN THOẠI VỀ NGƯỜI CHA

Theo sách Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, của nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội), Hồ Chí Minh 'sinh ra trong một gia đ́nh nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân. Cụ thân sinh ra Người [họ Hồ] là Nguyễn Sinh Huy, tức Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929) ...đỗ phó bảng và sống thanh bạch bằng nghề dạy học. Đối với các con, cụ giáo dục ư thức lao động và cho học tập để hiểu 'đạo lư làm người'. Sau khi đỗ phó bảng, bị bọn thống trị thúc ép nhiều lần, cụ ra làm quan, nhưng thường tỏ thái độ tiêu cực, không hợp tác với chúng. Cụ thường nói: 'Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ', nghĩa là 'Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn'. Vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp, cho nên sau một thời gian rất ngắn, cụ bị chúng cách chức. Cụ vào Nam bộ làm nghề thầy thuốc, sống cuộc đời thanh bạch, cho đến lúc từ trần.

Ông Nguyễn Sinh Sắc quả thật đă đỗ phó bảng năm 1901 (tân sửu) cùng một lần với Nguyễn Đ́nh Hiến, Phan Chu Trinh.. Tuy nhiên, Nguyễn Sinh Sắc không hề bị 'bọn thống trị thúc ép nhiều lần' sau khi đỗ phó bảng mới chịu ra làm quan. Ông Sắc đă xin đi làm quan ngay sau khi đỗ cử nhân và trước khi đỗ phó bảng. Nguyên vào năm 1894, Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An. Năm sau (1895), ông Sắc vào Huế thi hội bị hỏng, đă xin đi làm hành tẩu bộ Hộ. Ba năm sau, ông hỏng kỳ thi hội một lần nữa vào năm 1898. Trước khi dự kỳ thi hội năm 1901, ông Sắc c̣n tham dự hội đồng giám khảo chấm thi kỳ thi hương tại B́nh Định năm 1897 và Thanh Hóa năm 1900. Sau khi đỗ phó bảng trong kỳ thi hội và thi đ́nh năm 1901, ông làm thừa biện bộ Lễ từ 1902 đến 1909, rồi đi tri huyện B́nh Khê (B́nh Định) tháng 5 năm đó. Từ thừa biện đi tri huyện là thăng chức chứ không phải xuống chức.

Nguyễn Sinh Sắc bị sa thải chứ không phải bị cách chức.(6) Lư do sa thải cũng không phải v́ 'vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp '. Ông bị sa thải v́ đă hành xử tàn bạo với dân chúng. Trong một cơn say rượu, Nguyễn Sinh Sắc đă dùng roi mây trừng phạt và đánh chết một người tù vào tháng 1-1910. Gia đ́nh người nầy kiện lên cấp trên. Dù tri huyện Nguyễn Sinh Sắc đă chối căi rằng không phải v́ trận đ̣n của ông mà người kia chết, ông vẫn bị triều đ́nh ra sắc chỉ ngày 17-9-1910 phạt đánh 100 trượng. H́nh phạt nầy được chuyển đổi qua hạ bốn cấp quan lại và sa thải.(7) Lư do chuyển đổi h́nh phạt để Nguyễn Sinh Sắc khỏi bị đánh đ̣n có lẽ nhắm giữ thể diện của một quan chức triều đ́nh, và nhất là vị nầy lại là người có học vị cao. Ông Sắc nghiện rượu từ khi c̣n ở Huế. Chị của Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thị Thanh (1884-1954), vào Huế thăm cha năm 1906. 'Bà không thể chịu đựng lâu ngày thái độ cộc cằn thô lỗ của cha bà, nay đă mắc phải tật nghiện rượu và thường hay đánh đập bà '.(8) Do đó, năm sau bà bỏ Huế ra Nghệ An trở lại, mà không sống với cha.

Phải chăng câu: 'Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ ' (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn) là do những cán bộ cộng sản bịa ra, rồi gán cho ông Nguyễn Sinh Sắc để đả kích chế độ quân chủ? Hay phải chăng v́ bị đuổi ra khỏi ngành quan lại nên Nguyễn Sinh Sắc mới bất măn và thốt lên câu: 'Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ ' (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Nếu không, Nguyễn Sinh Sắc hăng hái xin đi làm quan làm ǵ, và sau nầy con ông, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) c̣n gởi thư đến viên Khâm sứ Pháp tại Huế xin cho ông một chức quan nhỏ nữa.

Ngày 26-2-1911, Nguyễn Sinh Sắc xuống tàu từ Đà Nẵng vào Sài G̣n. Ông ở lại Sài G̣n một thời gian, dạy chữ Nho cho nhà báo Diệp Văn Kỳ,(9) rồi đi Lộc Ninh làm giám thị đồn điền. Từ đó, ông không bao giờ trở ra Nghệ An. Ông sống lang thang ở miền Nam bằng nghề đông y, và nghề viết liễn đối cho dân chúng. Gần cuối đời, ông đến định cư tại làng Hội Ḥa An, Sa Đec, và từ trần ngày 29-11-1929.(10)

Khi Nguyễn Sinh Sắc bị băi chức và sống lang thang nghèo khổ ở miền Nam, con ông ta là Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, ra nước ngoài năm 1911, đă viết thư từ New York ngày 15-12-1912 cho viên khâm sứ Pháp tại Huế tha thiết '... cầu mong Ngài [chỉ khâm sứ Pháp] vui ḷng cho cha tôi [cha của Thành tức ông Sắc] được nhận một công việc như thừa biện ở các bộ, hoặc huấn đạo, hay giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao quư của Ngài...'(11)

Vậy huyền thoại về người cha của Hồ Chí Minh là một người yêu nước, chống đối chính quyền Pháp nên bị cách chức, là chuyện hoàn toàn bịa đặt do Ban Nghiên cứu Lịch sử trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam đưa ra nhắm là tăng giá trị cho lănh tụ của họ.

Tưởng cũng nên thêm ở đây một phát hiện của ông Trần Quốc Vượng, sử gia Hà Nội hiện nay. Trong sách Trong cơi của Trần Quốc Vượng, có bài 'Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dă)'. Phần cuối của bài nầy cho biết rằng ông Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm. Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đă có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi. Ông Trần Quốc Vượng viết: 'Nguyễn Ái Quốc sau cùng đă lấy lại họ Hồ v́ cụ biết ông nội đích thực của ḿnh là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm'. (12)

2.- HUYỀN THOẠI RA ĐI T̀M ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

Tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam đều viết rằng ngày 5-6-1911, thanh niên Nguyễn Tất Thành đă xuống tàu Amiral Latouche-Tréville để ra đi t́m đường cứu nước. Sau đây là lời trong sách Lịch sử Việt Nam của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội:

'Sự thất bại của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục của cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở các tỉnh Trung Kỳ mà Người [Hồ Chí Minh] từng tham gia khi đang học ở trường Quốc Học Huế, đă thôi thúc Người [HCM] hướng về các nước Tây Âu, mong muốn được đến 't́m xem những ǵ ẩn giấu đằng sau những Tự do, B́nh đẳng, Bác ái'. Sau khi rời Huế vào Phan Thiết ... ...Được ít lâu, lấy tên là Văn Ba, Người [HCM] xin làm phụ bếp trên chiếc tàu thủy Đô đốc La Tusơ Tơrêvin (La Touche Tréville), thuộc hăng vận tải hợp nhất của Pháp, để đi ra nước ngoài 'xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào'...'(13)

Sách Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp của nhà xuất bản Sự Thật giải thích sự ra đi của Hồ Chí Minh cũng gần giống như thế: '... Ít lâu sau, Hồ Chủ tịch vào Sài G̣n. Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa cũng chẳng khác ǵ Trung Kỳ dưới chế độ bảo hộ và Bắc kỳ dưới chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột, đồng bào cũng bị đọa đày, khổ nhục. Điều đó càng thôi thúc Hồ Chủ tịch đi sang các nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập, hùng cường, rồi sẽ trở về 'giúp đỡ đồng bào' đánh đuổi thực dân Pháp. Ư định ấy của Người [HCM] đă dẫn Người từng bước đi tới t́m một phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta.'(14)

Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cũng do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành, trả lời phỏng vấn tác giả Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh nói về lư do ra đi như sau:'...Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta...'(15)

Trần Dân Tiên chính lại là Hồ Chí Minh. Ông dùng một tên khác viết sách tự ca tụng ḿnh. Tại Việt Nam cũng như trên thế giới, đă có nhiều người viết sách về hoạt động của ḿnh, đôi khi để tự khen ḿnh, hoặc để biện hộ cho những việc làm của ḿnh, nhưng họ đề tên thật, chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Hồ Chí Minh dùng một tên khác tự ca tụng ḿnh là một sáng kiến kỳ lạ chưa một người tự trọng nào dám nghĩ đến.

Như thế, qua các sách của nhà cầm quyền cộng sản và qua chính những lời viết của Hồ Chí Minh, ông ta đi ra nước ngoài nhắm mục đích t́m đường cứu nước, nhưng trong thời gian gần đây, nhiều tác giả đă t́m được những chứng liệu cụ thể cho thấy rằng Hồ Chí Minh ra đi không phải để t́m đường cứu nước, mà chỉ v́ lư do kinh tế gia đ́nh.

Trong bài 'Từ mộng làm quan đến đường cách mạng Hồ Chí Minh và Trường Thuộc Địa', hai tác giả Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đă phổ biến ảnh sao (photocopy) hai lá thư của Nguyễn Tất Thành đề ngày 15-9-1911 gởi cho tổng thống Pháp và bộ trưởng bộ Thuộc Địa Pháp, xin hai ông ban ân huệ cho Thành được đặc cách vào học Trường Thuộc Địa Paris, nơi đào tạo quan lại cho các thuộc địa Pháp trong đó có Đông Dương. Phần chính trong nội dung của hai lá thư nầy hoàn toàn giống nhau. Đó là: 'Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện ḷng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú Trường Thuộc Địa. Tôi hiện đang làm công trong công ty Chargeurs Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche-Tréville). Tôi hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn...'(16)

Hai lá đơn trên đều bị bác, Nguyễn Tất Thành tiếp tục hành nghề trên các tàu biển. Ngày 15-12-1912, từ New York, Hoa Kỳ, Nguyễn Tất Thành gởi đến viên khâm sứ Pháp tại Huế một lá thư rất thống thiết xin một đặc ân là ban cho cha là Nguyễn Sinh Sắc, một chức việc nhỏ như giáo thụ hay huấn đạo, để ông nầy có điều kiện sinh sống.

Hai lá đơn trên cùng với lá thư gởi năn nỉ viên khâm sứ Pháp tại Huế cho thấy lúc mới ra đi, Nguyễn Tất Thành chỉ nhắm mục đích sinh nhai. V́ sinh kế gia đ́nh, lúc đó Nguyễn Tất Thành sẵn sàng thỏa hiệp với người Pháp để kiếm một chức quan cho cá nhân ông (bằng cách xin vào học Trường Thuộc Địa), hoặc cho phụ thân ông.

Điều nầy là chuyện b́nh thường của đời sống con người. Lớn lên, ai ai cũng phải kiếm cách mưu sinh để tự nuôi sống ḿnh và nuôi sống gia đ́nh. Hơn nữa, điều nầy c̣n có nghĩa là Nguyễn Tất Thành không phải ra đi t́m đường cứu nước. Việc ra đi t́m đường cứu nước chỉ là sản phẩm tưởng tượng sau nầy của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, nhắm làm đẹp cho việc ra đi của họ Hồ để lôi cuốn quần chúng trên đường hoạt động chính trị.



-- Lột Trần Huyền Thoại Hồ Chí Minh (Hong_Ha@Bach_Dang.com), December 03, 2004

Answers

Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ ChĂ­ Minh

3.- HUYỀN THOẠI CUỘC SỐNG ĐỘC THÂN GIẢN DỊ

Hồ Chí Minh cũng như ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương luôn luôn đề cao rằng ông ta suốt đời sống độc thân, không lập gia đ́nh, để có thể toàn tâm toàn ư phục vụ nhân dân. Sự thật, dù Hồ Chí Minh đi đâu, ở nơi nào, cũng đều có bóng dáng của người đàn bà trong suốt cuộc đời hoạt động của ông.

Theo giáo sư Nguyễn Thế Anh, khi hành nghề nhiếp ảnh ở Paris, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đă gởi thư tỏ t́nh với cô Bourdon ngày 10-5- 1923. Sau vài cuộc gặp gỡ và thư từ qua lại, cô Bourdon viết thư ngày 11-6-1923 cự tuyệt mối t́nh của Nguyễn Ái Quốc. Giáo sư Nguyễn Thế Anh c̣n trưng dẫn nhiều tài liệu cho thấy khi qua Moscow, nhà cầm quyền Liên Xô đă cung cấp cho Nguyễn Ái Quốc một 'người vợ'.(17)

Đến Quảng Châu (Trung Hoa), Nguyễn Ái Quốc, lúc đó lấy tên là Lư Thụy kết hôn với một người phụ nữ Trung Hoa là Tăng Tuyết Minh năm 1926. Bà nầy bị thất lạc sau cuộc chiến Quốc Cộng ở Trung Hoa năm 1927.(18) Theo một tài liệu khác, th́ trong thời gian nầy, Lư Thụy c̣n sống với một phụ nữ Trung Hoa thứ nh́ là Lư Huệ Khanh, em của Lư Huệ Quần. Lư Huệ Quần là vợ của Lâm Đức Thụ, một đồng chí của Lư Thụy. Tài liệu nầy giải thích rằng Nguyễn Ái Quốc đổi tên thành Lư Thụy là theo họ của Lư Huệ Khanh cho dễ hoạt động.(19) Khi cảnh sát Hồng Kông bắt Lư Thụy ngày 6-6-1931 tại thị trấn Cửu Long, gần Hồng Kông, ông đang sống với một phụ nữ Trung Hoa tên là Li Sam. Khi Lư Thụy đến Vân Nam, tướng Long Vân (Lung Yun) đă t́m cho ông một nhân t́nh người Tàu.(20)

Từ năm 1930, ở Hồng Kông, Lư Thụy dạy chính trị cho Nguyễn Thị Minh Khai tại trụ sở chi nhánh Bộ Đông phương của Quốc tế cộng sản. Sau một thời gian, hai người trở thành vợ chồng, và khi qua Liên Xô tham dự đại hội cộng sản quốc tế ngày 25-7-1935, hai người công khai sống chung.(21) Năm 1944, Hồ Chí Minh về hoạt động tại vùng Pắc Bó, Cao Bằng. Ở đây, theo sử gia và nhà hoạt động chính trị Trần Trọng Kim, ông Hồ sống chung với bà Đỗ Thị Lạc, bí danh 'chị Thuần', và sinh hạ một người con gái.(22)

Sau cuộc sống chung tạm bợ với Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử cho đến năm 1954, ông Hồ về Hà Nội. Theo tài liệu của Vũ Thư Hiên và Nguyễn Minh Cần, bộ chính trị đảng Lao Động đă đưa một cô gái thuộc sắc tộc Nùng ở Cao Bằng là Nông Thị Xuân (có sách viết Nguyễn Thị Xuân) về phục vụ Hồ Chí Minh năm 1955. Lúc đó, ông Hồ khoảng 65 tuổi và bà Xuân có lẽ khoảng trên dưới 22 tuổi, khá xinh đẹp: 'Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nơn, miệng tươi như hoa'.(23) Năm sau, bà Xuân sinh hạ một người con trai được đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Sau một thời gian chung sống, Hồ Chí Minh sa thải bà Xuân. Viên bộ trưởng công an Hà Nội là Trần Quốc Hoàn đă hiếp dâm bà Xuân, rồi cho người thủ tiêu một cách tàn bạo.(23)

Trong thời gian nầy, đảng Lao Động c̣n có ư định đưa cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh uỷ viên tỉnh Thanh Hóa, về Hà Nội để làm vợ Hồ Chí Minh. Cô Phương Mai đ̣i công khai hóa cuộc hôn nhân giữa hai người, th́ bị từ chối, nên cô rút lui.(24) Năm 1959, Đào Chú, uỷ viên thường vụ bộ chính trị đảng Cộng Sản, Phó thủ tướng chính phủ Trung Quốc sang Việt Nam nghỉ dưỡng. Một bộ trưởng trong chính phủ Hà Nội đă nói riêng với Đào Chú rằng Hồ Chí Minh muốn tái hôn với một người vợ Quảng Đông. Đào Chú rất hoan hỷ giúp đỡ, nhưng thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai đă thận trọng yêu cầu phía Việt Nam xem xét vấn đề cẩn thận. Hội nghị do Lê Duẩn triệu tập đă đi đến quyết định là phải bảo vệ h́nh tượng Hồ Chí Minh, nên việc ông Hồ muốn tái hôn với một phụ nữ Quảng Châu đă không thành.(25) Hồ Chí Minh cho Đào Chú biết ông muốn tái hôn, có nghĩa là ông Hồ tự thú nhận đă kết hôn một lần nào đó rồi.

Như thế huyền thoại thứ ba về Hồ Chí Minh, hy sinh cuộc sống cá nhân, sống độc thân để toàn tâm toàn ư lo việc nước, là một câu chuyện bí mật giấu đầu ḷi đuôi. Hồ Chí Minh có vợ là một chuyện b́nh thường, nhưng bản thân Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản trước sau luôn luôn che đậy việc nầy để lừa bịp nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới. Kết hôn, lập gia đ́nh là điều chẳng có ǵ xấu xa, nhưng xử sự tàn bạo với những người đă từng sống với ḿnh, che đậy việc kết hôn, lừa bịp trắng trợn mọi người là điều mà không một nền luân lư nào chấp nhận.

Sau khi Hồ Chí Minh từ trần, trong lời kêu gọi đưa ra ngày 3-9-1969, đảng Lao Động Việt Nam (tức đảng CSVN) đă viết: '...Cuộc đời của Người là một tấm gương chói lọi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần đoàn kết, của đạo đức giản dị, khiêm tốn, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư...'(26) Hăy nh́n vào cách sống của Hồ Chí Minh để biết ông có phải là người 'giản dị, khiêm tốn' hay không?

Trước hết, chế độ Hà Nội tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh sống trong một ngôi nhà sàn bằng gỗ. Nghe chữ 'nhà sàn', người Việt thường liên tưởng đến những ngôi nhà của người miền núi, làm bằng gỗ, cách mặt đất khoảng một thước, phía dưới dùng để cất giữ dụng cụ hay nhốt gia súc, hoặc liên tưởng đến những nhà sàn của một số cư dân ven sông hay dọc các kênh đào. Những ngôi nhà sàn nầy rất đơn sơ, giản dị. Ấn tượng giản dị khiến nhiều người tưởng tượng rằng ngôi nhà sàn của Hồ Chí Minh có lẽ cũng thế, và cũng tưởng rằng Hồ Chí Minh sống rất b́nh dân. Thực tế hoàn toàn không như vậy. Những du khách đă từng viếng ngôi nhà sàn của ông Hồ, hoặc những ai đă từng nh́n ngôi nhà sàn nầy qua phim ảnh, rồi so sánh với nhà sàn của người miền núi hoặc của những người sống ven sông, sẽ có cảm nghĩ khác. Ngôi nhà sàn của ông Hồ có vẻ giản dị một cách cố ư, lại rất sang trọng, xây dựng bằng loại gỗ cực tốt, trang bị đầy đủ theo tiện nghi thời đại, có người chăm sóc cẩn thận, và gần như là nhà nghỉ mát mùa hè, hoặc nơi ông đón tiếp du khách. Như vậy ngôi nhà sàn của ông Hồ chỉ là loại trang trí mắc tiền.

'Áo quần lên sân khấu rất quan trọng: luôn luôn giản dị (áo quần màu chàm). Đối với Hồ cũng như Staline, Mao, hoặc Kim Nhật Thành, sự giản dị được nghiên cứu kỹ lưỡng. Áo quần cắt may thô sơ theo kiểu Kroutchev hoặc Ceaucescu, biểu tượng của một thế hệ lănh đạo cộng sản. Điều đặc biệt của Hồ trong giới lănh đạo cộng sản là Hồ đi dép lốp (trên nguyên tắc cắt từ lốp xe hơi) ... C̣n ǵ ăn ảnh hơn dù là tiền chiến hay hiện đại 'Bác' Hồ đi dép lốp trên màn ảnh.'(27)

Hồ Chí Minh duy nhất chỉ để lộ một sở thích phàm tục rất người, đó là ông thích hút thuốc thơm Hoa Kỳ, đặc biệt là Camel hay Lucky Strike. (28) Không biết đây là dàn kịch để chứng tỏ ông ta cũng b́nh thường như mọi người, hay quả thật ông ta thích hút thuốc Mỹ. Dầu sao, cuộc sống của ông Hồ không giản dị như người ta tưởng.

Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên (chính là Hồ Chí Minh) đă viết trong phần đầu sách: 'Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe b́nh sinh của người được?'(29) Một người dùng một cái tên khác viết sách, tự khen ḿnh là khiêm tốn không muốn nói về ḿnh, rồi sau đó, suốt trong quyển sách lại kể lể tự đề cao sự nghiệp của ḿnh, th́ không biết nên xếp ông ta vào loại người ǵ đây?

Cuối sách nầy, Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) viết: 'Nhân dân gọi Chủ tịch là cha già của dân tộc, v́ Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam.'(30). Lời nầy cho thấy Hồ Chí Minh muốn gợi ư để được người Việt Nam gọi ông là cha già của dân tộc, nhưng không được dân chúng hưởng ứng, nên ông quay qua dùng chữ 'bác'. Ở đây lại thấy ông Hồ thậm khôn, v́ trong cơ cấu gia tộc Việt Nam, bác là anh của cha, bác lớn hơn cha và đứng trước cha trong sinh hoạt đại gia đ́nh, hoặc lễ nghi tế tự.

Theo Thành Tín, tức Bùi Tín, cựu đại tá quân đội cộng sản Hà Nội, cựu phó tổng biên tập báo Nhân Dân, Hồ Chí Minh công khai tự xưng là 'bác' năm 1945 trước quần chúng, lúc đó ông khoảng 55 tuổi.(31) Nói chuyện với dân chúng, trong đó có cả những người già cả, đáng tuổi ông, cha, chú, anh, chị ḿnh mà xưng bác th́ xin khỏi bàn về tư cách của 'bác'.

Chẳng những thiếu kính trọng với người đang sống, Hồ Chí Minh c̣n tỏ ra thiếu lễ độ đối với những người trước ông hàng mấy trăm năm. Hăy đọc những câu thơ của Hồ Chí Minh qua bài 'Ngẫu hứng' ông viết vào dịp viếng đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1226-1300) khoảng trước năm 1950:

'Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng, Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung. Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc, Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng. Bác đưa một nước qua nô lệ Tôi dắt năm châu đến đại đồng. Bác có linh thiêng cười một tiếng Rằng tôi cách mạng đă thành công.

Tự phong ḿnh là anh hùng đă là chuyện lạ, gọi một vĩ nhân của lịch sử sống cách đây hơn 600 năm bằng 'bác' là một sự vô lễ chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Khi Quốc sử quán triều Nguyễn tŕnh Khâm định Việt sử thông giám cương mục lên vua Tự Đức (trị v́ 1847- 1883) duyệt, trong khung cảnh xă hội vua là thiên tử (con trời), nhà vua đă phê b́nh nhiều nhân vật lịch sử, đôi khi với lời lẽ gay gắt, nhưng chưa bao giờ nhà vua có ngôn ngữ sỗ sàng thiếu lễ độ như Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh tưởng rằng gọi Trần Hưng Đạo bằng 'bác' là có thể tự nâng ḿnh lên ngang tầm với người xưa, nhưng ngược lại những lời nầy cho thấy hố cách biệt lớn lao giữa một vị thánh và một kẻ tự phụ hợm ḿnh. Chẳng những thế, người Việt Nam xưng tụng đức Trần Hưng Đạo là thánh, nên cách xưng hô của họ Hồ xúc phạm đến cả niềm tin của dân chúng Việt Nam. Nếu nói rằng bài thơ nầy là 'thơ khẩu khí', th́ càng thấy 'khẩu khí' của Hồ Chí Minh chẳng khiêm cung tư nào.

Hồ Chí Minh là chủ tịch miền Bắc, ông có quyền sống một cách tiện nghi đầy đủ để làm việc; thậm chí ông có quyền tận hưởng mọi lạc thú trên đời sau khi đă dày công cực khổ tranh đấu; ông có quyền lực to lớn của một chủ tịch nhà nước độc tài; ông có thể vượt qua luật pháp ra lệnh sinh sát mọi người; ông có thể làm bất cứ việc ǵ ông muốn dưới chế độ độc tài; nhưng nói rằng họ Hồ là người 'giản dị khiêm tốn' là điều hoàn toàn sai sự thật.

4.- HUYỀN THOẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Hồ Chí Minh luôn luôn hô hào đoàn kết dân tộc. Một trong những khẩu hiệu ưng ư của họ Hồ là 'đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công đại thành công.'(33) Sau đây là các cách thức đoàn kết của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.

* Đoàn kết là tiêu diệt tất cả mọi người bất đồng chính kiến bằng bất cứ giá nào để giành quyền lực: Khoảng giữa tháng 11-1924, Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Lư Thụy, đáp tàu từ Vladivostok (viễn đông Liên Xô) đi Quảng Châu (Trung Hoa) với vai tṛ thông ngôn của phái bộ cố vấn Borodin bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên trong thời kỳ liên minh quốc cộng đầu tiên ở Trung Hoa. Đến Quảng Châu, Lư Thụy bắt đầu gây dựng cơ sở đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà lănh đạo cách mạng Việt Nam uy tín nhất ở Trung Hoa thời bấy giờ là Phan Bội Châu. Để giành lấy tổ chức của Phan Bội Châu, một trong những việc làm đầu tiên của Lư Thụy ở Quảng Châu là bán tin tức cho Pháp bắt Phan Bội Châu khi ông Phan đi từ Hàng Châu đến Thượng Hải ngày 1-7-1925.(34) Từ đó, những người hoạt động cách mạng ở Trung Hoa thiếu người lănh đạo, dần dần ngả về theo nhóm cộng sản của Lư Thụy. Chẳng những chỉ một ḿnh Phan Bội Châu, mà những cán bộ cách mạng nào không theo phe Lư Thụy, đều bị Lư Thụy bán tin cho Pháp bắt trên đường về Việt Nam hoạt động.(35)

Trong cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930, các đảng viên cộng sản áp dụng đúng sách vở của Lư Thụy, rải truyền đơn tố cáo Quốc Dân Đảng sẽ tấn công Bắc Kỳ để Pháp đề pḥng và lùng bắt các đảng viên QDĐ. Nguyễn Thị Giang đă đưa các tờ truyền đơn nầy cho Nguyễn Thái Học xem, nhưng Nguyễn Thái Học vẫn không tin là những đảng phái cách mạng Việt Nam cùng chống Pháp lại có thể hại nhau như thế.(36)

Năm 1945, Nhật Bản thất trận và đầu hàng Đồng Minh. Tại hội nghị Potsdam (thị trấn ngoại ô Berlin), đại diện các nước Đồng Minh đưa ra tối hậu thư cho Nhật, trong đó quyết định về vấn đề Đông Dương như sau: quân đội Nhật sẽ bị giải giới do người Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) ở phía bắc vĩ tuyến 16, và do người Anh ở phía nam vĩ tuyến 16. Tối hậu thư không nói ai sẽ cầm quyền sau khi quân đội Nhật bị giải giới. Lợi dụng khoảng trống chính trị nầy, Mặt trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, gồm ṇng cốt là đảng viên cộng sản, tổ chức cướp chính quyền. Việt Minh đă giết hại và thủ tiêu vô số người yêu nước không đi theo chủ trương đường lối của Việt Minh. Những tên tuổi lớn đều bị Việt Minh giết hại như Phạm Quỳnh (1945), Ngô Đ́nh Khôi (1945), Tạ Thu Thâu (1945), Bùi Quang Chiêu (1945), Phan Văn Hùm (1945), Trương Tử Anh (1946), Huỳnh Phú Sổ (1947), Khái Hưng (1947)... Việt Minh thủ tiêu hàng loạt các đảng viên Quốc Dân Đảng, các nhà trí thức khác, bà hàng ngàn tín đồ đạo Cao Đài.(37) Việt Minh thủ tiêu tất cả những ai có thể tranh quyền với Việt Minh, từ trung ương, ở các thành phố lớn, đến những đơn vị nhỏ nhất ở các làng xă.

Như vậy, ư nghĩa thứ nhất về việc đoàn kết và liên hiệp đối với Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, là sự sáp nhập hay tiêu diệt tất cả các phe nhóm hay cá nhân đối lập với Cộng Sản bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ phương tiện ǵ, để chỉ c̣n lại những ai chịu 'đoàn kết' chấp nhận vâng phục cộng sản. Chỉ khi nào thất thế, gặp nhiều trở lực, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản mới sử dụng cách đoàn kết thứ nh́.

* Đoàn kết là tạm thời nhượng bộ, liên minh giai đoạn để vượt khó khăn: Cũng trong năm 1945, sau khi lập chính phủ đầu tiên ngày 2-9, gồm đại đa số đảng viên cộng sản, Hồ Chí Minh gặp nhiều trở ngại về phía người Pháp theo chân người Anh đến Đông Dương, và từ từ tiến ra Bắc; về phía người Trung Hoa (Quốc Dân Đảng) đang từ biên giới tiến xuống Hà Nội theo thỏa ước Potsdam; và về phía những đảng phái cách mạng Việt Nam như Việt Nam Quốc Dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách). Hồ Chí Minh đành phải nhượng bộ, tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 11-11-1945, thực chất là đảng Cộng Sản rút vào hoạt động bí mật.(38) Họ Hồ tổ chức tổng tuyển cử ngày 6-1, và thành lập chính phủ liên hiệp ngày 2-3-1946 gồm cả những lănh tụ Việt Cách và Việt Quốc như Nguyễn Hải Thần, Trương Đ́nh Tri, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Chu Bá Phượng, Nghiêm Kế Tổ ... Ngay sau khi kư kết được với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3, tạm ḥa hoăn với Pháp, và mua chuộc được các tướng lănh Trung Hoa để họ rút quân về nước, nghĩa là vừa thoát qua được khó khăn, Hồ Chí Minh thẳng tay loại bỏ ngay các lănh tụ không phải là Việt Minh ra khỏi chính phủ, khủng bố, giết hại nhân viên các đảng phái quốc gia, nuốt chửng những kẻ đă từng liên hiệp với họ.



-- (Hong_Ha@Bach_Dang.com), December 03, 2004.


Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ ChĂ­ Minh

Sách lược nầy được ứng dụng thêm một lần nữa với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập ngày 20-12-1960. Lúc đầu, mặt trận nầy gồm một số đảng viên cộng sản làm ṇng cốt và một số người chống chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Sau đó, những người không thuộc đảng Cộng Sản bị loại dần cho đến khi mặt trận chỉ c̣n lại những người của Cộng Sản Đảng mà thôi.

Những người trước đây bất đồng chính kiến, nhưng khi gặp Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, chịu khuất phục và chịu đi theo họ Hồ th́ được sử dụng trong những giai đoạn và hoàn cảnh cần thiết. Ví dụ Trần Huy Liệu (1901-1969), chủ bút Đông Pháp Thời Báo (1925-1927), chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Sài G̣n, bị Pháp bắt đày Côn Đảo trong năm năm. Măn hạn tù, ông ra bắc năm 1935 và gia nhập đảng Cộng Sản năm 1936. Năm 1939, ông bị Pháp bắt trở lại, đày đi Sơn La, rồi an trí năm 1942 ở Thái Nguyên, và Yên Bái. Năm 1945, ông trốn về Hà Nội làm báo Cứu Quốc của Việt Minh trong ṿng bí mật. Khi Việt Minh cướp chính quyền ngày 2-9, ông được Hồ Chí Minh giao làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền trong chính phủ Việt Minh đầu tiên. Ông được cử làm trưởng phái đoàn Việt Minh gồm cả Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (tức nhà thơ Huy Cận) vào Huế chứng kiến việc thoái vị của vua Bảo Đại tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945.

Hồ Chí Minh giao Trần Huy Liệu làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền không phải v́ tín nhiệm Trần Huy Liệu mà v́ họ Hồ cần uy tín chính trị của ông. Trần Huy Liệu vốn là chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt Quốc Dân Đảng tại Sài G̣n. Hồ Chí Minh sử dụng Trần Huy Liệu để tuyên truyền cho cái gọi là chính sách đoàn kết đảng phái của Việt Minh, nhắm lôi cuốn quần chúng theo họ, nhất là lôi cuốn các đảng viên Quốc Dân Đảng. Lúc bấy giờ do những hy sinh to lớn của Nguyễn Thái Học và các đồng chí, Quốc Dân Đảng rất có uy tín chính trị trên toàn quốc. Khi đă qua khỏi giai đoạn cần thiết, năm 1946, Hồ Chí Minh cử Trần Huy Liệu làm uỷ viên thường trực Quốc Hội. Cuối cùng, năm 1953, Trần Huy Liệu trở thành trưởng ban Nghiên cứu Sử Địa của nhà cầm quyền cộng sản, một chức vụ không có quyền hành.

Không chỉ riêng trường hợp Trần Huy Liệu, mà c̣n nhiều nhân vật tiếng tăm khác cũng rơi vào trường hợp ông, như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Nguyễn Phương Thảo (tức tướng Nguyễn B́nh), Nguyễn Hữu Thọ... Như thế, ư nghĩa thứ nh́ của việc đoàn kết với Hồ Chí Minh có nghĩa là quy thuận họ Hồ, theo đuôi đảng Cộng Sản và làm bù nh́n trong những thời điểm cần thiết cho họ Hồ hay nói cách khác là chỉ được họ Hồ liên minh giai đoạn. Thử kiểm điểm danh sách những lănh tụ cộng sản từ trước đến nay, chỉ những người gia nhập đảng Cộng Sản ngay từ khi bước vào hoạt động chính trị, thuộc thành phần trung kiên mới nắm giữ thực quyền. Những người đă theo các đảng khác rồi sau đó gia nhập đảng Cộng Sản, hoặc những người ngoài đảng mà có công lao, chỉ giữ những chức vụ tượng trưng mà thôi, như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị B́nh ...

* Đoàn kết là sự vâng phục tuyệt đối lănh đạo đảng: Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời tại Hà Nội. Trong di chúc, Hồ Chí Minh nhắn nhủ với các đảng viên đảng Cộng Sản: '...Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ phải giữ ǵn sự đoàn kết nhất trí của đảng như giữ ǵn con ngươi của mắt ḿnh...'(39) Vậy sự 'đoàn kết nhất trí' trong nội bộ đảng là ǵ?

Trong sinh hoạt đảng Cộng Sản Việt Nam, khi các cấp lănh đạo đưa ra những vấn đề thảo luận, nếu một đảng viên tŕnh bày những ư kiến cấp tiến mới mẻ, th́ được lănh đạo gọi là 'thành phần xét lại'. Ngược lại, có những đảng viên không muốn thực hiện các cuộc cải đổi quan trọng, th́ được đánh giá là 'bảo thủ, tŕ trệ'. Nói một cách khác, bất cứ ai có ư kiến ǵ cũng đều bị chụp mũ là tả khuynh hoặc hữu khuynh, lệch lạc hoặc xét lại, trừ ư kiến của lănh đạo đảng. Đảng viên chỉ c̣n một giải pháp duy nhất là gật đầu vâng lệnh thượng cấp.

Như vậy, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam là sự tuyệt đối vâng phục và trung thành của đảng viên đối với lănh đạo đảng. Nếu không vâng phục lănh đạo đảng, kết quả nhẹ nhất là sự trù dập, kỷ luật, và nặng nhất là thanh trừng.

Ở Việt Nam có một câu thành ngữ thời danh minh họa sự đoàn kết của Cộng Sản: 'Đảng gọi th́ dạ; đảng không gọi th́ không dạ. Đảng gọi mà không dạ không được; đảng không gọi mà dạ cũng không được.' Nói trắng ra, ư nghĩa thứ ba của sự đoàn kết theo quan điểm của đảng Cộng Sản có nghĩa là phải chịu sự lănh đạo độc tài, độc đảng, và tuyệt đối vâng phục trung kiên với đảng Cộng Sản. Điều nầy đưa đến một kết quả tại hại là các đảng viên bị xơ cứng trí óc, sẽ không c̣n sáng kiến để làm việc.

Điểm đặc biệt là Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản chấp nhận một người trước đây chống đối họ, nhưng khi đă theo họ th́ phải vâng phục tuyệt đối. Ngược lại, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản không bao giờ chấp nhận những người trước đây đă từng hoàn toàn phục tùng họ, mà sau đó lại có ư muốn cải cách theo chiều hướng nhân bản, dân chủ, tự do, dù vẫn tuân phục đảng và chủ nghĩa xă hội. Những người nầy cũng bị coi là kẻ thù và chắc chắn bị loại bỏ. Đó là trường hợp Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Trần Độ, Hà Sĩ Phu, Dương Thu Hương ...

Có lẽ cũng nên thêm một điểm nữa rất dễ thấy trong lịch sử, là đảng CSVN không bao giờ tôn trọng những hiệp ước quốc tế do họ kư kết. Hiệp ước là giải pháp thỏa thuận giữa các bên về một cuộc tranh chấp, cũng có nghĩa là một sự giải ḥa giữa các bên, bước đầu để tiến dần dần đến sự đoàn kết thống nhất. Đối với đảng CSVN, kư kết hiệp ước chỉ là đánh lừa dư luận, tạm ngưng tranh chấp, nhắm dưỡng sức và củng cố nội bộ, để rồi tiếp tục bành trướng. Ví dụ rơ nét nhất là hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và hiệp định Paris ngày 27-1- 1973. Đảng CSVN kư kết hai hiệp ước nầy với sự chứng kiến của các nước trên thế giới, mà họ c̣n trắng trợn vi phạm, xé bỏ hiệp ước, huống ǵ là sự cam kết giữa họ với những cá nhân hay những đoàn thể người Việt khác.

Do đó, ḥa giải, liên hiệp và đoàn kết với cộng sản trước sau cũng sẽ bị cộng sản kiếm cách khống chế và hoàn toàn mất tự do. Những ai muốn ḥa hợp, liên hiệp, đoàn kết với cộng sản, nên nhớ câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh với Daniel Guérin trong một lần gặp mặt ở Paris: '... Tất cả những ai không theo đường lối của tôi đều sẽ bị bẻ găy...'(40)

* Đoàn kết là vắt chanh bỏ vỏ: Lúc Việt Minh cộng sản phát động chiến tranh chống Pháp, nhiều người yêu nước đă đứng lên hưởng ứng công cuộc kháng chiến. Chẳng những nhiều thanh niên lên đường theo tiếng gọi của quê hương, mà những người ở lại hậu phương cũng cố gắng đem tài vật ủng hộ công cuộc đấu tranh chống Pháp. Việt Minh đă xưng tụng những người nầy là những nhàø 'hằng tâm hằng sản'(có ḷng và có của). Một khi tạm đứng vững, và nhất là khi được Trung Cộng viện trợ ào ạt từ năm 1951 trở đi, cộng sản Việt Nam mở cuộc cải cách ruộng đất từ 1953, và quay mặt với những kẻ đă nuôi dưỡng ḿnh từ khi c̣n trứng nước, coi họ như kẻ thù, tố cáo những nông dân ' hằng tâm hằng sản' là địa chủ, đánh đập, hành hạ và giết họ mà không cho chôn xác. Một tác giả đă từng sống gần Hồ Chí Minh, kể lại rằng bà Nguyễn Thị Năm ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có nhà là nơi căn cứ giao liên, đă nuôi nhiều cán bộ cao cấp qua lại, từ Hồ Chí Minh, đến Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt (Hạ Bá Cang); thế mà bà là một trong những người đầu tiên bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, và đặc biệt đă kêu cứu đến tận tai Hồ Chí Minh mà ông lờ đi, để cho người ta giết bà.(41) Như vậy, với cộng sản, đoàn kết có nghĩa là lợi dụng một chiều theo giai đoạn, xong việc rồi 'vắt chanh bỏ vỏ'. Việc 'vắt chanh bỏ vỏ' được thấy rơ nhất trong việc Hồ Chí Minh đối xử với bà Nông Thị Xuân. Hồ Chí Minh sống với bà Xuân như vợ chồng, và có với bà nầy một đứa con trai. Khi đă chán bà Xuân, ông Hồ để cho viên bộ trưởng công an là Trần Quốc Hoàn tự do hiếp dâm bà Xuân, rồi giết vứt xác bà Xuân ngoài đường để ngụy tạo một tai nạn.(42) Đối xử với người đă từng sống với ḿnh và có với ḿnh một đứa con, mà c̣n tàn bạo như vậy, thử hỏi Hồ Chí Minh c̣n có thể nói là chuyện t́nh nghĩa đoàn kết với ai được? Từ vụ cải cách ruộng đất năm 1953 đến vụ án 'chống đảng' do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ khởi xướng ở Bắc Việt khoảng giữa thập niên 1960, v́ muốn bảo vệ địa vị của riêng ḿnh, Hồ Chí Minh đă im tiếng không can thiệp, để mặc cho các đồng chí thân thiết của ông ta bị thanh trừng, tù đày, hay tàn sát.(43) Chẳng những Hồ Chí Minh, mà Vơ Nguyên Giáp cũng thế. Những tướng lănh và sĩ quan thân cận của viên tướng nầy lần lượt bị thanh trừng mà ông ta không dám lên tiếng để bảo vệ sự thật. Như vậy, chẳng những trên phương diện chính trị đảng phái, mà cả trên phương diện cá nhân, đoàn kết với những người cộng sản chỉ có nghĩa là để cho họ lợi dụng xong rồi bị loại bỏ.

5.- HUYỀN THOẠI GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

Trong Tự phán hay Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu cho biết rằng năm 1920 (canh thân), ông gặp hai nhân vật Liên Xô tại Bắc Kinh là Grigorij Voitinski và một viên tham tán ṭa đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh. Khi Phan Bội Châu ngỏ ư muốn nhờ Liên Xô giúp đỡ đưa du học sinh Việt Nam sang Liên Xô du học, viên tham tán nầy chỉ vẽ cặn kẽ, và hứa rằng Liên Xô sẽ giúp đỡ tận t́nh với điều kiện là phải chấp nhận '...tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản, học thành rồi về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông ... ra sức làm những sự nghiệp cách mạng.' Viên tham tán nầy yêu cầu Phan Bội Châu dùng tiếng Anh viết sách kể hết chân tướng người Pháp. Có thể những đ̣i hỏi của người Liên Xô về 'tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản' làm Phan Bội Châu e ngại, nên ông tránh mặt, không gặp lại người Liên Xô. Phan Bội Châu giải thích rằng ông không viết được tiếng Anh, nên ông 'không lấy ǵ trả lại thịnh ư ấy'.(44) Đây là một lối nói xă giao, chứ thật ông Phan có thể vượt qua vấn đề ngôn ngữ bằng cách nhờ những người khác giúp làm thông ngôn, bằng chứng là Phan Bội Châu không biết tiếng Nhật, nhưng cũng đă nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu tiếp xúc với hai chính trị gia Nhật Bản là bá tước Đại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu) và tử tước Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Ki). Ngoài ra, giả dụ trong trường hợp Phan Bội Châu thật ḷng muốn tiếp xúc, chắc chắn toà đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh có những thông ngôn Hoa ngữ, có thể viết bút đàm với Phan Bội Châu.

Ở đây cần chú ư một điểm là tại Nga, cuộc cách mạng cộng sản diễn ra vào ngày 7-11-1917.(45) Đảng Cộng Sản Liên Xô phải tốn một thời gian từ 1917 đến 1922 để tiêu diệt nhóm Bạch Nga bảo hoàng c̣n lại ở trong nước, ổn định t́nh h́nh nội bộ, nắm quyền thật vững chắc, mới bắt đầu bành trướng thế lực ra nước ngoài vào đầu đầu thập niên 20. Khi đó, Liên Xô phải đối đầu với các cường quốc Âu Mỹ đă tiến chiemn các thuộc địa từ thế kỷ 19. Do đó, nhu cầu vận động các nước thuộc địa nổi lên tranh đấu chống lại các cường quốc thực dân đang là kẻ thù của Liên Xô, nằm trong sách lược nầy. Chính v́ vậy mà Nguyễn Ái Quốc được cộng sản quốc tế sắp đặt cho qua Liên Xô để thụ huấn trở thành một thứ 'chiến sĩ tiên phong' trong việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản ở Á Châu, và cũng chính từ đó mà Nguyễn Ái Quốc đă h́nh thành quyển Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925.

Nếu viên đại diện Liên Xô tại Bắc Kinh yêu cầu Phan Bội Châu phải chấp nhận '...tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản, học thành rồi về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông ...' th́ những người Việt khác theo Đệ tam Quốc tế Cộng sản, như Hồ Chí Minh, chắc chắn đều phải làm thế.

Điều đó có nghĩa là khi đến Liên Xô đầu năm 1924, Hồ Chí Minh, lúc đó lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, chắc chắn phải tuyên thệ thực hiện những điều nầy mới được Liên Xô chấp nhận, và cũng có nghĩa là ngay từ đầu, Hồ Chí Minh chịu làm tay sai cho Liên Xô, biến nước Việt Nam thành một nước cộng sản chư hầu của Liên Xô, và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cho Liên Xô, nghĩa là kiếm cách đánh phá những địch thủ của Liên Xôââ. Hồ Chí Minh và những người cộng sản che giấu rất kỹ điều nầy. Phải chăng do tâm lư ẩn ức v́ cả cha lẫn con đều bị thất bại trên đường quan lại của Pháp, không xin được vào học trường Thuộc Địa Paris để ra làm quan cho Pháp, mà Hồ Chí Minh cam tâm làm như thế, để đạt cho được tham vọng quyền lực mà ông hằng khao khát?

Sau khi làm việc trong phái bộ Borodin tại Trung Hoa, Nguyễn Ái Quốc không được Đệ tam quốc tế tín nhiệm nên bị giữ lại ở Liên Xô một thời gian, từ 1933 đến 1938. Trước khi thế chiến thứ nh́ bùng nổ (1939), tại viễn đông, Nhật Bản hoành hành mạnh, tranh giành những quyền lợi của Liên Xô ở Măn Châu, và Triều Tiên, nhất là từ khi giới quân phiệt kiểm soát được chính quyền ở Nhật Bản, và thi hành chính sách bành trướng đế quốc.(46) Đệ tam quốc tế cộng sản liền sai Nguyễn Ái Quốc trở qua Trung Hoa vào đầu năm 1939 nhắm thực hiện những điệp vụ chống Nhật ở Á Châu. Để thấy rơ bản chất tay sai cộng sản quốc tế của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam, xin đọc đoạn sau đây của bộ sử do chính các tác giả cộng sản Hà Nội viết:

'Sau một thời gian nắm t́nh h́nh cách mạng Việt Nam và Đông Dương, ngày 10-5-1941, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Hồ Chủ tịch triệu tập và chủ tŕ Hội nghị Trung ương Đảng Cộng Sản Đông Dương lần thứ 8 ở Pắc Bó. Các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, cùng một số đại biểu của Xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài đă tham gia Hội nghị.

'Hội nghị phân tích sâu sắc t́nh h́nh thế giới và trong nước, vạch rơ triển vọng của cuộc chiến tranh thế giới và khẳng định: Nếu sau Chiến tranh thế giới lần thứ I, xuất hiện nước xă hội chủ nghĩa đầu tiên là Liên Xô, th́ cuộc chiến tranh đế quốc lần nầy sẽ làm cho cách mạng nhiều nước thành công, sẽ có thêm nhiều nước xă hội chủ nghĩa ra đời. Đảng nhấn mạnh phải xem cách mạng Việt Nam như một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, lúc nầy là một bộ phận của phong trào dân chủ chống phát xít, đặc biệt là phải tích cực ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc.'(47)



-- (Hong_Ha@Bach_Dang.com), December 03, 2004.


Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ ChĂ­ Minh

Gần đây, trong sách Viết cho mẹ & quốc hội, một đảng viên cao cấp của cộng sản, ông Nguyễn Văn Trấn tiết lộ rằng tên đảng Lao Động do chính Stalin đặt,(48) và cũng chính Stalin đă thúc đẩy Hồ Chí Minh thực hiện cuộc cải cách ruộng đất ngay từ cuộc gặp gỡ năm 1950.(49) Sau đó Mao Trạch Đông áp lực, huấn luyện cán bộ, và gởi chuyên viên sang tổ chức, theo dơi, thi hành cuộc cải cách ruộng đất.(50) Cuộc cải cách nầy phát khởi năm 1953 đă sát hại hàng trăm ngàn nông dân ở miền Bắc.

V́ đă mật kết đi theo con đường cộng sản Liên Xô, Hồ Chí Minh dùng chiêu bài giải phóng đất nước và độc lập dân tộc để dẫn cuộc chiến tranh chống Pháp thành cuộc chiến tranh giữa hai thế lực tư bản và cộng sản, lồng trong khung cảnh nội chiến giữa hai khuynh hướng quốc gia và cộng sản. Trong cuộc xâm lăng miền Nam từ năm 1960, Lê Duẩn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, đă từng nói: 'Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc...'(51)

Như vậy, trước sau như một, Hồ Chí Minh và đảng CSVN luôn luôn kiên định vai tṛ 'lính đánh thuê' cho Liên Xô và Trung Quốc bằng xương máu của dân tộc Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh và đảng CSVN đă dồn các thành phần quốc gia về phía phải kiếm cách liên kết với Pháp, và sau nầy với Hoa Kỳ, để chận đứng nạn cộng sản trên đất nước chúng ta, và để khỏi bị cộng sản Việt Nam tiêu diệt.

Với sự hỗ trợ tích cực của Liên Xô và Trung cộng, cuộc bành trướng của cộng sản tại Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn: (1)thiết lập các căn cứ tại Việt bắc từ đầu thập niên 40 và cướp chính quyền năm 1945; (2) dùng chiêu bài giải phóng và độc lập để kêu gọi dân chúng chống Pháp, và chiếm lĩnh một nửa đất nước, từ vĩ tuyến 17 trở ra bằng hiệp định Genève năm 1954; (3) Hồ Chí Minh và đảng CSVN tiếp tục mở cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam từ năm 1960 cho đến năm 1975.

Khi chưa chiếm được miền Bắc, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đă tổ chức cuộc cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách nầy được tiếp tục năm 1954 cho đến năm 1956, gây kinh hoàng cho nhân dân miền Bắc, giết chết hàng trăm ngàn người, và nhất làm làm tê liệt mọi sức đối kháng của người dân, làm hỏng hết các giềng mối luân lư đạo đức gia đ́nh, con cái tố cha mẹ, vợ chồng tố nhau, anh em tố nhau, bà con không dám nh́n mặt nhau. Một sĩ quan cấp tiểu đoàn trưởng quân đội cộng sản Hà Nội tuyên bố: 'Ông ấy [chỉ Hồ Chí Minh] biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương.'(52)

Về phương diện văn hóa, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Cộng Sản dẹp bỏ hết các tôn giáo, tịch thu hết sách vở cũ, chỉ cho nhà trường dạy về chủ nghĩa cộng sản, lịch sử cộng sản, những nhà văn nhà thơ cộng sản. Đề thi văn chương ở đại học và trung học chỉ quanh quẩn những bài thơ của Hồ Chí Minh và Tố Hữu. Từ năm 1956 đến năm 1958, các văn nghệ sĩ không ca tụng chế độ cộng sản bị đem ra đấu tố và tù đày trong vụ án gọi là Nhân văn giai phẩm. Sau đó, các văn nghệ sĩ muốn sống c̣n phải im hơi lặng tiếng, viết theo chỉ thị của đảng. Cuộc đánh phá các văn nghệ sĩ nầy c̣n nhắm mục đích lâu dài là chận trước các tiếng nói đối lập để họ khỏi cản trở công cuộc xâm lăng miền Nam. Văn nghệ sĩ vốn là những người nhạy cảm trước nỗi đau khổ của đồng bào, nếu để họ tự do ngôn luận, th́ khó có thể thi hành kế hoặch xâm lăng mà không bị họ phát hiện hoặc phản đối.

Về phương diện kinh tế, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản gọi là giải phóng, nhưng đă loại bỏ nền kinh tế tự do, để trói buộc dân Việt vào chính sách kinh tế chỉ huy theo kiểu Liên Xô và Trung Cộng, tịch thu hết đất đai, dồn nông dân vào các hợp tác xă nhà nước, quốc hữu hóa các công ty xí nghiệp của tư nhân. V́ người dân không được quyền sáng kiến làm ăn sinh sống, không được tự do kinh doanh, nên nền kinh tế Bắc Việt hoàn toàn suy sụp và kiệt quệ dưới chế độ cộng sản của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh phải nhờ đến viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng. Người ta kể rằng một cây kim may cũng phải nhờ Trung Cộng viện trợ. Càng nhờ vả th́ càng mất tự do, và phải trả bằng nguyên vật liệu như than đá, quặng sắt ... mà cho đến nay vẫn c̣n chưa trả hết.

Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản tiếp tục áp dụng chiêu bài giải phóng dân tộc với miền Nam sau năm 1954. Năm 1972, người Hoa Kỳ bắt tay được với Trung Cộng, thay đổi chiến lược chính trị ở Á Châu, t́m cách rút quân ra khỏi Việt Nam. Hiệp định Paris năm 1973 đă đưa Việt Nam Cộng Ḥa vào tư thế lúng túng. Cộng sản Bắc Việt, với sự hậu thuẫn hùng hậu của Liên Xô và Trung Cộng, tiến chiếm miền Nam năm 1975.

Những chính sách áp dụng ở miền Bắc năm 1954 lại được đem ra áp dụng ở miền Nam. Về tôn giáo, văn hóa, chính trị, cộng sản buộc miền Nam đi vào quỹ đạo cộng sản. Về kinh tế, lần nầy cộng sản trúng vố bở v́ từ năm 1954 đến năm 1975, miền Nam càng ngày càng phồn thịnh, dân chúng giàu có. Cộng Sản lấy được 16 tấn vàng của kho bạc miền Nam, tịch biên tất cả những nhà tư sản mà Hà Nội gọi là 'mại bản',(53) đổi tiền nhiều lần để kiểm soát t́nh h́nh lưu thông tiền tệ, quốc doanh tất cả công ty xí nghiệp... Miền Nam là vựa thóc của đất nước, nhưng dưới chính sách kinh tế chỉ huy của cộng sản, dân chúng miền Nam đói rách nghèo khổ cùng cực hơn bao giờ cả.

Trong bản tuyên bố ngày 2-9-1945 mà cộng sản gọi là bản tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh viết: 'Chúng [chỉ thực dân Pháp] lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương ṇi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân...Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến do dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lư, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn...'(54)

Nay chúng ta ứng dụng những lời do chính tay Hồ Chí Minh viết, và từ miệng Hồ Chí Minh đọc, vào chính sách của chế độ cộng sản ở Việt Nam, như nhà tù nhiều hơn trường học, như quốc hữu hóa đất đai, công ty xí nghiệp, đánh tư sản ... th́ nghiệm ra rằng 'chúng' là cộng sản chứ chẳng ai khác.(55)

Do những thay đổi ở Trung Cộng khi Đặng Tiểu B́nh trở lại cầm quyền năm 1978 sau khi Mao Trạch Đông từ trần (1976), do chủ trương Glasnost (Cởi mở) và Perestroika (Tái cấu trúc) của Gorbachev khi ông lên làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1985, do những biến động ở Đông Âu năm 1989, sự sụp đổ của đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1991, và nhất là do cuộc cách mạng thông tin liên lạc bằng hệ thống vi tính và mạng lưới viễn thông quốc tế, đảng Cộng Sản Việt Nam không c̣n bưng bít và g̣ ép được dân chúng nữa, nên bắt buộc đảng Cộng Sản phải thay đổi về kinh tế, nhưng vẫn độc tôn về chính trị. Khẩu hiệu 'Chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc' trước đây trong thời chiến tranh, nay trở thành khôi hài với dân chúng và mỉa mai đối với những người đă chết trong cuộc chiến v́ khẩu hiệu nầy, khi nhà cầm quyền Hà Nội tha thiết mong mỏi Hoa Kỳ trở lại Việt Nam vào giữa thập niên 90.



-- (Hong_Ha@Bach_Dang.com), December 03, 2004.


Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ ChĂ­ Minh

Theo nghĩa tầm nguyên, giải phóng là cởi mở ra cho tự do, nghĩa là đưa một cái ǵ từ t́nh trạng bị giam hăm kềm kẹp đến t́nh trạng được thoát ly và tự do, tức từ chỗ xấu đến tốt hơn. Đàng nầy, với đảng CSVN, giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước có nghĩa là biến Việt Nam thành chư hầu của Liên Xô, Trung Quốc, nô lệ hóa dân chúng Việt Nam theo tín điều cộng sản, đặt nhân dân Việt Nam dưới chế độ độc tài, độc đảng, bóc lột, phá hoại, đầy ải và bần cùng hóa nhân dân một cách có hệ thống, có bài bản của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam.

Trong lịch sử Việt Nam, khác với những cuộc chiến tranh giải phóng trước đây, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản là trường hợp đầu tiên và duy nhất đă lợi dụng tinh thần dân tộc, ḷng yêu nước, khát vọng độc lập tự do của nhân dân, đưa ra chiêu bài giải phóng đất nước, kêu gọi dân chúng theo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, 'đế quốc' Mỹ, để áp đặt một chế độ độc tài bóc lột khắc nghiệt hơn cả ngoại bang thực dân. Lợi dụng khát vọng độc lập tự do của dân tộc Việt Nam để tước đoạt tự do của người Việt Nam, sử dụng xương máu của giống ṇi để phục vụ quyền lợi đảng phái riêng tư và quyền lợi của quốc tế cộng sản, là một tội lỗi lịch sử ngàn năm bia miệng .

6.- HUYỀN THOẠI 'TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH'

Sau năm 1975, Việt Nam suy sụp dần dần với chính sách kinh tế chỉ huy và sự cai trị hà khắc của chế độ cộng sản. Cao điểm của sự suy sụp là việc ông Đỗ Mười, uỷ viên bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam, chỉ huy cuộc cải tạo công thương nghiệp miền Nam, thực chất là đánh 'tư sản' năm 1978, ngăn sông cách chợ, cấm cản tiểu thương, đày ải dân thành thị đến các vùng hoang địa, cưỡng bách lao động trong những công tác thủy lợi thiếu nghiên cứu, tung quân xâm lăng Campuchia, chỉ để tránh sức mạnh của người dân trong nước. Dân chúng đói khổ ta thán, tinh thần cán bộ đảng viên sa sút theo.

Để kiếm cách tuyên truyền cổ vơ dân chúng hưng phấn trở lại, nhà nước cộng sản Hà Nội đánh bóng h́nh tượng Hồ Chí Minh, đă chết từ năm 1969 trước khi miền Nam bị cưỡng chiếm. Họ tổ chức cuộc 'rước đuốc bác Hồ' xuyên Việt, từ lăng mộ Hồ Chí Minh ở Hà Nội lên các tỉnh miền núi Bắc Việt, và quan trọng nhất là từ Hà Nội tiến xuống các tỉnh phía Nam vào khoảng tháng 10-1980, giống như kiểu rước đuốc của nhà độc tài Hitler năm 1933 ở Nuremberg (Đức).

Ánh đuốc bập bùng lung linh gây không khí huyền hoặc theo nghi lễ cổ xưa cũng không làm tan đi băng giá lạnh lùng trong tâm hồn dân chúng Việt Nam đă triền miên khổ đau v́ nạn độc tài cộng sản. Càng về nam, dân chúng càng ít hưởng ứng, nên sau chặng đường từ Tuy Ḥa vào Nha Trang th́ cuộc rước đuốc tan ră. Dân chúng cần cái ăn cái mặc, chứ không phải là những lời nói suông. V́ không xuống quá Nha Trang, do đó ở Sài G̣n và trong nam, dân chúng ít nghe biết chuyện rước đuốc nầy.

Năm 1989, Đông Âu bắt đầu biến động và thoát khỏi đế quốc Liên Xô. Sau đó đến lượt Liên Xô, chiếc nôi của Cộng Sản Quốc Tế, sụp đổ năm 1991. Khẩu hiệu chiến lược hàng đầu mà đảng Cộng Sản Việt Nam thường sử dụng: 'Chủ nghĩa Mác - Lê bách chiến bách thắng' không c̣n hiệu nghiệm. Đảng CSVN lâm vào t́nh trạng lúng túng, không biết làm sao tiếp tục tuyên truyền với đảng viên và dân chúng, v́ nói rằng chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng, nay sao lại sụp đổ tan tành chóng vánh ngay tại quê hương của Lenin? Đảng CSVN vội quay qua cầu cứu Hồ Chí Minh lần nữa, đưa thêm 'tư tưởng Hồ Chí Minh' tiếp theo sau chủ nghĩa Mác Lê, nghĩa là từ nay nền tảng của ư thức hệ cộng sản Hà Nội là chủ nghĩa Mác xít - Lê nin nít và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó mới xuất hiện chuyện 'tư tưởng Hồ Chí Minh'. Điều 4 chương 1 hiến pháp năm 1992 của cộng sản Hà Nội chính thức công khai việc nầy.(56)

Tưởng cũng nên thêm ở đây, khi Liên Xô sụp đổ, ở Hà Nội việc duy tŕ xác ướp Hồ Chí Minh gặp khó khăn cả về kỹ thuật lẫn tài chánh. Người ta đă nghĩ đến việc thiêu xác ông ta. Việc nầy đă được báo chí và đài phát thanh nói đến, nhưng do nhu cầu chính trị cần nêu cao 'tư tưởng Hồ Chí Minh', nên Hồ Chí Minh vẫn c̣n được nằm trong ngôi mộ đồ sộ ở Hà Nội với sự cố vấn của các chuyên gia Nga.

Hồ Chí Minh từ trần ngày 2-9-1969, nhưng Lê Duẩn và bộ chính trị đảng CSVN sợ xui xẻo v́ trùng với ngày quốc khánh của Hà Nội, đă sửa đổi ngày chết là 3-9, và sửa đổi luôn cả chúc thư của Hồ Chí Minh. (57) Đồng thời đảng CSVN xây dựng nấm mồ Hồ Chí Minh thật đồ sộ, tốn kém, gọi là lăng theo từ ngữ vua chúa thời quân chủ, nhắm lợi dụng huyền thoại và nấm mồ bề thế Hồ Chí Minh để uy hiếp tinh thần dân chúng, và tạo hào quang cho những kẻ kế thừa.(58)

'Tư tưởng Hồ Chí Minh' là ǵ? Không thấy đảng Cộng Sản Việt Nam tŕnh bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đại hội tháng 2 năm 1951, Hồ Chi Minh phát biểu: 'Về lư luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin...lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.'. Khi đó, đại biểu miền Nam là Nguyễn Văn Trấn đă tŕnh bày với Hồ Chí Minh rằng: ' Có đồng chí c̣n nói: hay là ta viết 'tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh'. Ông Hồ trả lời:'Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác- Lê nin.'(59) Một lần khác, có người đă hỏi Hồ Chí Minh v́ sao ông không viết sách về lư thuyết cộng sản, th́ ông trả lời ông không cần viết, v́ đă có Mao Trạch Đông viết rồi.(60) Hồ Chí Minh không có tư tưởng ǵ, nên những kẻ thừa kế tha hồ vẽ vời sáng tác mọi chính sách và gắn cho nhăn hiệu Hồ Chí Minh.

Theo dơi những bài diễn văn, những khẩu hiệu do ông Hồ đưa ra, mọi người đều nhận biết rơ ràng tất cả đều do ông Hồ cóp nhặt từ các nhà tư tưởng văn hóa và chính trị đông tây. Ví dụ bài diễn văn khai sinh chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa do ông Hồ đọc ngày 2-9-1945, thường được đảng Cộng Sản gọi là bản 'Tuyên ngôn độc lập', hoàn toàn vay mượn của các văn bản Pháp và Mỹ.(61) Mọi người sẽ không lấy làm lạ nếu biết rằng người giúp ông Hồ viết bản văn nầy là một thiếu tá người Hoa Kỳ, Archimedes L. A. Patti.(62)

Trong bài nói chuyện tại lớp học tập chính trị khoảng hơn 3.000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc (dạy từ lớp 6 đến lớp 12 trung học), do bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh viết: 'V́ lợi ích mười năm th́ phải trồng cây, v́ lợi ích trăm năm th́ phải trồng người '. (Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958) Câu khẩu hiệu nầy được sách vở Cộng Sản xem là tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về kế hoạch đào tạo nhân tài cho đất nước, thật ra là câu nói của Quản Trọng các đây hơn hai ngàn năm.(63)

Một trong những khẩu hiệu hàng đầu được xem là tư tưởng Hồ Chí Minh để huấn luyện và giáo dục cán bộ cộng sản là 'Chí công vô tư, cầm kiệm liêm chính', thật ra rút từ lời dạy của Nho giáo cũng đă trên 2.000 năm. Với các phạm trù nầy, Nho giáo đă đào tạo không biết bao nhiêu thế hệ quan lại thanh liêm trước đây phục vụ quần chúng. Ngược lại, lời sao chép của Hồ Chí Minh chỉ là cái vỏ bọc che đậy một hệ thống cầm quyền tham ô nhũng lạm từ trên xuống dưới, mà bất cứ người nào ở trong cũng như ngoài nước, kể cả người ngoại quốc đều biết.

C̣n việc Hồ Chí Minh bảo rằng 'Không có ǵ quư hơn độc lập tự do', th́ mọi người đều đă biết, chính nhờ lợi dụng tinh thần độc lập dân tộc và ḷng yêu thích tự do của dân chúng mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN đă đưa dân tộc Việt Nam vào ṿng nô lệ cộng sản Nga Hoa.

Nêu lên vài ví dụ trên đây để thấy rằng những điều gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ là sự cóp nhặt danh ngôn của những vĩ nhân thế giới, rồi đề tên họ Hồ vào. Sở dĩ ông Hồ và các thuộc hạ của ông mạnh dạn mượn tư tưởng của người khác làm của riêng ông Hồ, v́ từ năm 1954 đến 1975, Bắc Việt sống hoàn toàn bưng bít, không có bất cứ một sách vở xưa cũ hay một phương tiện truyền thông nào đến với dân chúng, ngoài sách đảng, báo đảng, và đài phát thanh đảng. Trong t́nh h́nh đó, Hồ Chí Minh muốn cóp nhặt của ai th́ tha hồ mà cóp nhặt, không ai biết ǵ để có thể so sánh. Rủi ro có người nào phát hiện, người đó cũng không dám lên tiếng dưới chế độ độc tài của ông. Ngay cái tên 'Nguyễn Ái Quốc', ông Hồ mượn của Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền;(64) và cái tên 'Hồ Chí Minh' ông Hồ mượn của Hồ Học Lăm.(65) Chẳng những lấy tên 'Hồ Chí Minh' của Hồ Học Lăm, năm 1940, Nguyễn Ái Quốc c̣n chiếm dụng luôn danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh do Hồ Học Lăm và Nguyễn Hải Thần lập ra ở Nam Kinh (Trung Hoa) vào năm 1936 để đánh lừa những người yêu nước Việt Nam và cả chính quyền Trung Hoa để được giúp đỡ.

Theo tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, Bản án chế độ thực dân Pháp do Nguyễn Ái Quốc đưa ra năm 1922, do chính ông khởi viết từ 1921.(66) Thật ra, Nguyễn Ái Quốc không viết được sách nầy, v́ lúc đó ông ta không đủ tŕnh độ Pháp văn để viết sách,(67) và ông ta đă cóp nội dung bài 'Đông Dương chính trị luận' của Phan Chu Trinh (đă được Jules Roux, bạn của Phan Chu Trinh, dịch ra tiếng Pháp để gởi cho chính phủ Pháp và Albert Sarraut sắp qua làm toàn quyền Đông Dương). 'Bài nầy Quốc chỉ sửa chút ít, viết lại đề tựa khác 'Bản án chế độ thực dân Pháp', nhờ luật sư Phan Văn Trường sửa chữa, viết lại nhiều trang, viết lời tựa trước khi in và phổ biến.'(68)

Chẳng những ông Hồ 'mượn' tư tưởng vĩ nhân thế giới làm tư tưởng của ḿnh, cóp sách của người khác rồi sửa chửa làm sách của ḿnh, ông ta c̣n mượn luôn thơ của người khác để làm thơ ḿnh. Tác phẩm được coi là nổi tiếng của họ Hồ là Ngục trung nhật kư [Nhật kư trong tù]. Nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục đă phân tách tỉ mỉ tác phẩm nầy và đi đến kết luận như sau: 'Phần phân tích ở trên chứng thực già Lư là chủ nhân của những bài thơ xây dựng theo kĩ thuật thơ Đường; những bài thơ nầy chiếm hết ba phần tư tác phẩm. Phần c̣n lại có thể coi là của Hồ Chí Minh. Tôi chỉ nói là có thể v́ tôi không khẳng định được rơ ràng bài thơ nào đích thực là của Hồ Chí Minh, bài thơ nào thuộc về các tác giả khác.'(69) Từ phát hiện của nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục, có lẽ cũng cần nên cẩn án lại cẩn thận những tác phẩm mang tên Hồ Chí Minh có phải thực sự là của ông ta không?(70)

Không biết ông Hồ đă tự cóp nhặt hoặc đạo văn, hay những thuộc hạ của ông muốn tâng bốc ông Hồ, đă cóp nhặt và đạo văn giúp cho ông Hồ. Nếu như thế th́ họ đă hại h́nh tượng Hồ Chí Minh của họ. Tai hại một cách công khai nhất là bộ chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam đă thêm phần 'tư tưởng Hồ Chí Minh' sau chủ nghĩa Mác-Lê. Hồ Chí Minh không bao giờ là một nhà tư tưởng, cũng không phải là một lư thuyết gia chính trị. Trong sách Ho Chi Minh, Jean Lacouture đă ít nhất hai lần nói rằng ông Hồ không phải là một lư thuyết gia, dù lúc viết sách nầy Lacouture là một kư giả c̣n thiên tả.(71) Mọi người đều đă từng nghe nói đến Marxism (Mác-xít), Leninism (Lênin-nít), Stalinism (X́talin-nít), Titoism (Titô-ít), Maoism (Mao-ít), nhưng không bao giờ nghe nói đến 'Hoism' (Hồ-ít).(72) Ông Hồ thật sự chỉ là một nhà chính trị giỏi thực hành, một chiến thuật gia (tactician), ứng biến mau lẹ, có tài đóng kịch, đặc biệt rất sắc máu và tàn ác dị thường. (73) Việc bộ chính trị đảng CSVN đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, công khai đưa vào hiến pháp, làm cho người ta càng thêm chú ư, và càng để lộ trước mặt mọi người rằng ông Hồ chẳng có tư tưởng nào đặc sắc. (74)

Sau sự sụp đổ của các đảng cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu, bộ chính trị đảng CSVN tưởng rằng thổi phồng huyền thoại 'tư tưởng Hồ Chí Minh' nhắm gây hưng phấn dân chúng. Thực chất việc trên đă làm cho chủ nghĩa nầy càng thêm mất ư nghĩa và không quyến rũ được ai. Ngày nay, chủ nghĩa Mác-Lê, và h́nh tượng Hồ Chí Minh chỉ c̣n là chiếc phao để đảng Cộng Sản duy tŕ quyền lực độc đảng độc tài dựa trên bạo lực mà thôi. Trong khi đó, dư luận trong nước cũng như trên thế giới đều lên tiếng hô hào loại bỏ điều 4 hiến pháp 1992, nghĩa là chẳng những loại bỏ đặc quyền tối thượng của đảng CSVN, mà c̣n loại bỏ luôn chủ thuyết Mac xít - Lê nin nít và cái gọi là 'tư tưởng Hồ Chí Minh'.

Tóm lại, những huyền thoại về Hồ Chí Minh do ông tự tạo ra, hay do các thuộc hạ của ông dựng nên, đều là những phấn son giả tạo tô điểm h́nh tượng Hồ Chí Minh.(75) Những huyền thoại nầy một thời đă đánh lừa được một số người Việt Nam và thế giới. Gần đây, trong một cuộc phỏng vấn, sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), tác giả sách Livre Noir du Communisme [Sách đen chủ nghĩa cộng sản], đă nói: 'Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đă từng xuống đường biểu t́nh ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đă từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một ḿnh tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đă bị sai lầm v́ những tuyên truyền sai lạc của cộng sản.' (76)

Dần dần, ḍng sông thời gian đă rửa sạch lớp phấn son giả tạo, làm bay đi những huyền thoại, để lộ ra khuôn mặt thật của Hồ Chí Minh. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng Hồ Chí Minh là một nhân vật lớn của lịch sử hiện đại Việt Nam. Ông đă lập nhiều thành tích đáng kể và đáng nể. Những thành tích nầy tốt hay xấu, có lợi hay có hại cho nhân dân Việt Nam, đó là sự phán xét của nhân dân.(77) Lột trần những huyền thoại Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết để trả lại cho Hồ Chí Minh, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, những ǵ thật sự là của Nguyễn Sinh Cung.

TRẦN GIA PHỤNG

HOME



-- (Hong_Ha@Bach_Dang.com), December 03, 2004.


Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ ChĂ­ Minh

Cam on Hong Ha Bach Dang ve nhung bai viet that gia tri. Cam on

-- (aaa11111@yahoo. com), December 03, 2004.


Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ ChĂ­ Minh

Cac chien huu than men,

tai sao cu phai dem may cau chuyen lan than ve cai thang cho chet nay ban toi ban lui cho met xac?!

-- LeTrungNam (TrungNam@VCHC.org), December 03, 2004.


Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ Chí Minh

Để cho mấy người chưa biết đọc cho vui. Man, HSTạo 'xung' quá hèn chi Hsmen đẻ ra thằng Nong Đứt Ku. Chắc ông Sắc hận lắm hén. Very sorry for him.

-- (tamgaco@yahoo.com), December 03, 2004.

Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ ChĂ­ Minh

Ôi trời ơi! Sự thật là đây!!! Sự thật là đây!!! Hơn 20 năm qua tôi đă sống trong Matrix. Tôi đă nhiều lần tự hỏi HCM có thật sự quá lư tưởng như những ǵ tôi đă học, đă đọc, đă nghe. Tôi bắt đầu nghi ngờ khi họ(DCS và nhà nước Viet Nam) luôn tránh né hoặc không bao giờ nói rơ về "những cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu", "những sai lầm của Đảng", "những cuộc đánh tư sản" v .v .v . Mà chỉ có những con người dă man mới có thể làm và ra lệnh làm những điều đó.

-- luc bat tong tam, December 1st 2004 (thanhnienyeunuoc@yahoo.com), December 04, 2004.

Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ ChĂ­ Minh

Theo nhà lăo th́ lăo Hồ đă đi làm đĩ CS chín phương 7 hướng nhưng cũng biết c̣n chừa lại phương Bắc VN để lấy chồng. Sự trâng tráo của đám thủ lợn luộc ngoài Hà Nội hiện nay ai cũng biết là cái bọn đạo diễn dựng phim quay chậm để kéo dài thời gian tại vị trong cái chuồng heo sặc sụa mùi dâm ô của lợn, ô uế băng hoại đạo đức không những chỉ cho bọn lợn chúng nó mà c̣n gây ảnh hưởng đến nền đạo đức của cả dân tộc.

Cái mặt bôi son trét phấn của con đĩ pḥ có khéo đến đâu cũng không thể nào che dấu được cái bệ rạc hôi thối của ả làng chơi ! Không tin th́ mọi người cứ vào cái động Ba đ́nh mà xem ả Hồ đang phất phơ trong cái ḥm kiếng. Trông mà phát ọe !!!

-- Long Quân (but_chang_ta@yahoo.com), December 04, 2004.


Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ ChĂ­ Minh



-- Ho DAm tac (sale@tintucvietnam.com), December 04, 2004.

Response to Lột Trần Huyền Thoại Hồ ChĂ­ Minh



-- Ho DAm tac (sale@tintucvietnam.com), December 04, 2004.
Moderation questions? read the FAQ