T́m sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư cũ của cụ Trần Trọng Kim

greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread

Kính thưa ông.

Trang web của ông có nói đến Quốc văn Giáo Khoa Thư của cụ Trần Trọng Kim. Tôi đang t́m quyển sách này để dạy con cái tôi nhưng không thấy.Xin ông vui ḷng chỉ cho nơi để kiếm. Sách này bây giờ có lẽ đă hết bản quyền. Mong rằng sẽ có một hội mạnh thường quân nào đó cho vào trang web để các cha mẹ muốn giáo dục con cái một cách đúng đắn- không phải như kiểu Tố Hữu- có thể download mà dùng. Thiết tưởng đây cũng là ư nguyện của cụ Trần Trọng Kim nếu cụ c̣n sống vậy.

Xin chân thành cám ơn ông.

Ngô Cường

-- Cuong Ngo (ntrcg@yahoo.com), August 02, 2004

Answers

Response to Tìm sĂ¡ch Quốc Văn GiĂ¡o Khoa Thư cũ của cụ Trần Trọng Kim

Visit Link http://www.lenduong.net/article.php3? id_article=4503 !

Neu vao khong duoc thi phai vuot bien qua FireWall cua viet cong

Visit http://www.geocities.com/faith2luvz/VUOTBIEN.html!

-- Nong bi dai' (vietnamcongsans@yahoo.com), August 02, 2004.


Response to Tìm sĂ¡ch Quốc Văn GiĂ¡o Khoa Thư cũ của cụ Trần Trọng Kim

Những Suy Nghĩ Về Việc Soạn Lại Một Bộ Sử Việt Nam Chân Chính

Nguyễn Phúc

Phần I : Góp Ư Với Các Bạn Trẻ Muốm T́m Hiểu Lịch Sử Nước Nhà

Gần đây trong giới trẻ Việt Nam tại hải ngoại, nhất là trong giới sinh viên, có khuynh hướng "trở về nguồn". Để giúp các bạn trẻ thực hiện ư hướng rất chính đáng và tốt đẹp đó, tại hải ngoại hiện nay có khá nhiều tài liệu, sách báo về văn minh, văn hóa, phong tục tập quán, tôn giáo, văn chương, thi phú v.v... được in lại hay mới xuất bản, khá đủ để các bạn nghiên cứu. Tuy nhiên tài liệu hiện hữu về lịch sử nước nhà c̣n thiếu sót, chứa đựng nhiều sai lầm, hay đặc biệt trong các "sử liệu" của Cộng Sản Việt Nam, có những điều thêm thắt hay bóp méo sự thật, những ngụy tạo, thêu dệt, g̣ ép theo một đường hướng đă định sẵn v.v... thế nên, nếu chỉ dựa vào những tài liệu gọi là "lịch sử" đó, e rằng không khỏi có một cái nh́n sai lệch về lịch sử đất nước và dân tộc.

Những lư do thiếu sót đă được nhiều người nêu ra. Sau đây, chỉ ghi đại khái những lư do chính:

1- Nhà sử học Trần Trọng Kim viết trong Lời Tựa của cuốn Việt Nam Sử Lược của ông rằng: "Nước Việt Nam ta khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào quăng thế kỷ thứ XIII. Từ đó trở đi nhà nào lên làm vua cũng trọng sự làm sử".

V́ vậy, các nhà làm sử chỉ có thể dựa vào sử sách của Trung Hoa để viết quốc sử về các thời trước. Điều đáng tiếc là về thời đại thượng cổ (từ họ Hồng Bàng đến nhà Triệu, theo sự phân chia của Trần Trọng Kim) th́ "phần nhiều là những sự hoang đường huyền hoặc". Về thời đại Bắc thuc (từ khi vua Vũ Đế nhà Hán chiếm đất NamViệt của nhà Triệu đến đời Ngũ Quí hay Ngũ Đại ở bên Tàu và bên ta có họ Khúc và họ Ngô Xướng lên (đc lập) th́ sử của Tàu "đại để chỉ chép những chuyện cai trị, chuyện giặc giă, chứ các công việc khác th́ không nói đến" nên "sử cũ của nước ta chép rất là sơ lược lắm".

2 - V́ muốn đồng hóa người Việt Nam với người Tàu, một trong những chính sách thâm độc của quan quân Tàu cai trị nước ta là thu nhặt những ǵ là di tích của nước ḿnh, như là sách vở, và đem về Tàu hết sạch. Vào thời Minh thuc chẳng hạn, th́ theo sách "Lịch Triều Hiến Chương Văn Tịch Chí" của Phan Huy Chú, Tàu đă lấy đem về nước hàng trăm cuốn sách của nước Nam, trong đó có hai bộ sách của Trần Hưng Đạo là "Binh Gia Yếu Lược" và "Vạn Kiếp Bí Truyền" và cuốn "Đại Việt Sử Kư" của Lê Văn Hưu (30 quyển); phần lớn những sách ấy không biết mất đi đâu,thật là một thiệt hại lớn cho nước nhà, đặc biệt cho các sử gia và những nhà nghiên cứu.

3 - Việc chép sử là phận sự của các sử quan, phàm nhất cử nhất động của nhà vua đều phải biên chép. C̣n những chuyện quan hệ đến sự tiến hóa của nhân dân trong nước th́ ít được để ư đến. Đây là một thiếu sót lớn; làm sử như vậy là không đạt được chủ đích của công việc viết sử. Chúng ta sẽ trở lại điểm này và điểm 1 trong phần II của bài này.

Tuy nhiên, những thiếu sót hay sự sai lầm của các nhà làm sử - đôi khi ngoài ư muốn của họ - không tai hại bằng chủ trương thêu dệt hay bóp méo sự thật của Cộng Sản Việt Nam. Thực dân Pháp cũng đă từng miêu tả những người yêu nước, những nhà cách mạng là những kẻ phiến loạn, nhưng nay đă rơ trắng đen, không c̣n ai thắc mắc về vai tṛ của các vị ấy trong lịch sử. Trong lúc đó, ảnh hưởng của sự dối trá, lươn lẹo của Cng Sản Việt Nam vẫn duy tŕ cho đến nay, hận thù vẫn c̣n chồng chất, sự nghi kỵ giữa người Việt với nhau vẫn ám ảnh trí óc của người dân. Lối tuyên truyền theo đó chỉ có người Cng Sản là yêu nước chân chính, đảng cng sản là đảng duy nhất đấu tranh cho sự tự do dân tộc, độc lập đất nước và những người, những đảng phái quốc gia là tay sai của thực dân, đế quốc, là nhân viên của CIA, và đường lối giáo dục theo giáo điều của họ đă tạo nên những thế hệ thanh thiếu niên đầy định kiến và thành kiến sai lệch.

Ngay trong cuốn "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh, mt tác giả được coi là "phản chiến" xuất bản vào đầu thập niên 90, tức là hơn 15 năm sau khi chiến tranh chấm dứt, những người lính miền Nam vẫn bị gọi là "ngụy quân", "tên lính ngụy" (mặc dù ai cũng biết chính quyền miền Nam đă tranh đấu để bảo vệ tự do hơn miền Bắc, và quân đi miền Nam đă tranh đấu để bảo vệ mảnh đất tự do, chống lại sự xâm lăng của b đi cng sản miền Bắc). Nh"ng định kiến và thành kiến ấy e c̣n lâu mới gt sạch được.

Trước t́nh trạng các sử liệu (gồm những b sử, bài viết, tài liệu nghiên cứu, bài báo v.v...) thường có những sai lầm, thiếu sót, thêu dệt hay bóp méo sự thật, người muốn học sử phải làm thế nào? Không đọc hay đọc tất cả? Theo thiển ư của chúng tôi, chúng ta cần có sự chọn lựa, đồng thời phải thận trọng trong việc t́m hiểu lịch sử nước nhà. Hiện nay, tại hải ngoại chúng ta có thể t́m mua những b sử sau đây:

- Việt Nam Sử Lược (1971 - in lại) của Trần Trọng Kim

-Việt Sử Toàn Thư (1960) của Phạm Văn Sơn

- Việt Nam Pháp Thuc Sử (1961) của Phan Khoang

- Việt Sử Xứ Đàng Trong (1967) của Phan Khoang

- Quân Sử Việt Nam (1983)

- Việt Nam Thời Pháp Đô H (1970) của Nguyễn Thế Anh

- Việt Sử Tân Biên của Phạm Văn Sơn

Đây là kết quả nh"ng cố gắng lớn lao của các tác giả; tuy nhiên có thể c̣n có nh"ng thiếu sót,nhất là trong những phần ghi chép về những chuyện từ thời thượng cổ cho đến hết thời Pháp thuc (1945) v́ nh"ng lư do đă tŕnh bày trên đây.

Chính ông Trần Trọng Kim cũng công nhận tính cách sơ lược của cuốn sách của ḿnh. Ông viết: "Độc giả cũng nên biết cho rằng bộ sử này là bộ "sử lược", chỉ cốt ghi chép những chuyện trọng yếu để hăy tạm giúp cho những người hiếu học có sẵn quyển sách mà xem cho tiện. C̣n như việc làm thành ra bộ sử thật là đích đáng, kê cứu và phê b́nh rất tuờng tận, th́ xin để dành cho những bậc tài danh sau này sẽ ra công mà giúp cho nước ta về việc học sử. Bây giờ ta chưa có áo lụa, ta hăy mặc tạm áo vải, tuy nó xấu xí nhưng nó có thể làm cho ta đỡ rét. Nghĩa là ta hăy làm thế nào cho những thiếu niên nước ta ngày nay ai cũng có thể biết đôi chút sự tích nước nhà, cho khỏi tủi quốc hồn." Vậy bi giờ chúng ta hăy đọc những b sử hiện h"u trong tinh thần đó trong lúc chờ đợi có một "bộ sử thật là đích đáng" mà chúng ta sẽ bàn đến ở phần II.

Về thời gian từ 1945 cho đến nay th́ ở miền Nam chưa có cuốn sử nào viết từ thời quốc trưởng Bảo Đại (1945- 1955) đến thời Việt Nam Cng Ḥa (1955-1975). Chỉ có những bài báo nói về nh"ng sự việc hay một biến cố lẻ tẻ chưa được hệ thống hóa, giải thích đầy đủ gốc ngọn và sự liên quan giữa nh"ng việc, biến cố ấy với những việc khác.

Ở miền Bác th́ chắc là không thiếu ǵ sách, tài liệu,bài báo v.v... ca ngợi chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa và sau là chế độ Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và huênh hoang đề cao chiến thắng "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" với những sự thêu dệt, bóp méo sự thật... như đă nói ở trên. Nếu các bạn v́ ham học sử mà cố t́m những tài liệu liên quan đến thời gian đó, dù xuất xứ từ miền Nam hay miền Bắc và nếu các bạn có dịp đọc những tài liệu của miền Bắc th́ các bạn hăy tự hỏi "những chuyện đó có đúng sự thật hay không?" Dĩ nhiên các bạn khó ḷng biết đâu là sự thật v́ các bạn hoặc chưa chào đời, hoặc tuổi c̣n quá nhỏ khi những sự việc đó xẩy ra, nhưng các bạn có thể hỏi ư kiến các bậc phụ huynh, hoặc có thể dùng lư trí mà xét đoán; nếu nội dung có nhiều tính cách chủ quan, những sự thổi phồng quá đáng, lời lẽ hằn học, thiếu vô tư trong sự nhận xét v.v... th́ các bạn nên coi đó là những bài hay tài liệu tŕnh bày ư kiến cá nhân, chứ không có tính cách sử liệu. Vi rằng, Viết sử tất phải trọng sự thật. Đời Đông Chu Liệt Quốc bên Tàu, quan Hữu Khanh nước Tề là Thôi Ch" giết vua nước Tề là Tề Trang Công; Thôi Ch" sai Thái sử bá (sử quan) chép vào sử là vua bị bệnh sốt rét mà chết. Thái sử bá không nghe biên vào cái thẻ (thời đó chưa có giấy nên viết vào thẻ tre) rằng: "Ngày Ất Hợi, tháng 5, mùa hạ, Thôi Ch" giết vua là Quang (tên Tề Trang Công)". Thôi Ch" nổi giận giết Thái sử bá rồi sai hai em Thái sử bá là Trọng và Thúc chép sử. Trọng và Thúc lại chép như trước. Thôi Ch" lại giết cả hai. Đến lượt người em thứ ba là Quí th́ Quí cũng chép y như vậy. Thôi Ch" bảo chép khác đi th́ tha cho. Quí nói: "Có thế nào th́ chép thế ấy là cái bổn phận của nhà làm sử, nếu trái bổn phận mà sống th́ chẳng thà chết c̣n hơn!" Ch" đành phải ném cái thẻ đưa trả Quí và cho Quí ra về.

Tóm lại, "sự thật" là mt tiêu chuẩn để đánh giá các tài liệu của miền Bắc, dù họ có gọi đó là sử kư, sử liệu hay ǵ ǵ "sử" đi nữa cũng vậy.

Các bạn cũng có thể muốn biết về chiến tranh Việt Nam v́ sự hiện diện của các bạn tại hải ngoại là mt trong những hậu quả của một cuộc chiến gây ra nhiều tranh luận nhất trong chiến sử thế giới mà đến nay vẫn c̣n dư âm. Các bạn có thể muốn biết tại sao cha anh ḿnh phải bỏ nước ra đi trong một cuộc di tản vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà để sống một cuc sống lưu vong vất vưởng ở khắp mọi nơi trên thế giới. Thế th́ các bạn khỏi phải lo thiếu tài liệu. Nh"ng tài liệu tiếng Việt in thành sách, viết thành bài báo có thể đến hàng trăm bản, c̣n những tài liệu viết thành tiếng ngoại quốc th́ vô số. Riêng ở Hoa Kỳ, theo cuốn "No More Vietnams" của cố tổng thống Richard Nixon, có đến 1200 cuốn sách, hàng ngh́n bài báo (đăng trên các nhật báo, tập san và đặc san) và hàng tá phim chiếu bóng và phim tài liệu để chiếu trên màn ảnh vô tuyến truyền h́nh luận giải về vấn đề này. Cùng một vấn đề mà có bao nhiêu người khai thác th́ ta có thể tưởng tượng là đă có bao nhiêu nhận định, giả thuyết, phê phán, bao nhiêu đề nghị giải pháp. Trong số các tác giả, có nhiều nhà báo, nhà b́nh luận, nhiều binh gia... nổi tiếng, nhưng cũng có những kẻ lợi dụng cơ hi có đề tài "ăn khách" này để nhẩy vào "ăn có". Do đó, không tránh khỏi t́nh trạng "vàng thau lẫn lộn". V́ vậy, nếu không chuẩn bị trước, không thận trọng trong việc chọn lựa sách để đọc, mà trái lại gặp sách nào đọc sách ấy th́ các bạn sẽ lâm vào một "mê hồn trận", khó bề thoát ra khỏi đó. Hay nói như ông bà chúng ta trước đây là "đa thư" th́ "loạn tâm", rốt cuc các bạn sẽ không thấy đâu là phải, đâu là trái, ai có chính nghĩa, ai không có hay mất chính nghĩa.

V́ không thể đọc hết các sách đă xuất bản và xem hết các phim đă được tŕnh chiếu, nên chúng tôi không thể đê nghị một danh sách các tác giả nên đọc, một bản kê những phim đáng coi. Chúng tôi tạm đưa ra đề nghị khiêm tốn sau đây:

1 - Sách nên đọc:

a- Cuốn "No More Vietnams" của cố tổng thống Richard Nixon (không nhớ tên nhà xuất bản và năm xuất bản; các bạn ở Pháp có thể t́m đọc bản dịch nhan đề "Plus Jamais De Vietnams", Albin Michel xuất bản, 1985). Trong cuốn này ông chỉ trích phần lớn các nhận định sai lầm về chiến tranh Việt Nam như Hồ Chí Minh là mt người có tinh thần quốc gia, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam độc lập đối với Bắc Việt v.v... và đả phá các tín điều của phe chống việc Mỹ tham chiến tại Việt Nam như: chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh trái đạo đức (immoral) hay chiến tranh Việt Nam không thể thắng được v.v... Ông nhất quyết chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh có chính nghĩa; tưởng cũng nên nhắc lại là sự kiện mới đây, trong tờ Le Monde Diplomatique tháng 6, 1999, vị chủ bút nguyệt san này là ông Ignacio Ramonet, trong bài "Nouvel Ordre Global" đă công nhận rằng chiến tranh Việt Nam có chính nghĩa (une "juste cause pourtant, selon les critéres d'aujourd' hui...). Cuốn "No More Vietnams" sẽ cung cấp cho các bạn mt cái nh́n tổng quát về chiến tranh Việt Nam, bàn về lập luận của cả hai phe chống đối và ủng hộ việc Mỹ tham chiến, nói cách khác, cung cấp cho các bạn một hiểu biết căn bản để từ đó t́m hiểu thêm về cuc chiến này qua những tác phẩm khác.

b - Cuốn "Lost Victory" của William Colby, cố tổng giám đốc cơ quan CIA, nhà xuất bản Contempora Books, Chicago, Illinois (các bạn ở Pháp hăy t́m đọc bản dịch nhan đề "Vietnam - histoire secrète d'une victoire perdue", nhà xuất bản Perrin, Paris). Trong cuốn này ông Colby khẳng định rằng Nam Việt Nam đă thắng cuc chiến tranh du kích của cộng sản và vào năm 1972, qua sự đẩy lui một cuộc tấn công ào ạt của b đi Bắc Việt, trong lúc 500.000 quân Hoa Kỳ đă trở về nước, Nam Việt Nam đă chứng tỏ khả năng chiến thắng của ḿnh. Nhưng nếu chiến thắng năm 1972 đă trở thành cuộc chiến bại năm 1975, đó là v́ Hoa Kỳ đă từ chối ủng hộ Nam Việt Nam về phương diện tinh thần cũng như vật chất.

c- Cuốn "To bear Any Burden" của Al Santoli, nhà xuất bản E. P. Dutton Inc., 1985. Đây là một "oral history", một cuốn sách dựa vào những cuộc phỏng vấn đủ hạng nhân vật, binh sĩ, nhà ngoại giao, tù binh, vợ những quân nhân mất tích (MIA), nhà báo, sử gia v.v... cho thấy bao nhiêu cái nh́n khác nhau về cuộc chiến, bao nhiêu nỗi đau khổ khác nhau" (theo lời phê b́nh của Chicago Tribune).

Dĩ nhiên, có rất nhiều cuốn "sách đáng đọc", những cuốn phim đáng xem th́ tất phải có những cuốn sách không nên đọc, những cuốn phim không nên xem v́ những sách ấy, những phim ấy đem đến cho các bạn những ư niệm lệch lạc dựa vào quan niệm chủ quan, mặc cảm tội lỗi của người viết, của người làm phim. Sau đây là hai thí dụ:

1 - Cuốn "In Retrospect: The Tragedy And Lesson of Vietnam" của ông Robert S. McNamara, cựu B Trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ. Cựu Nghị Sĩ Nguyễn Văn Chức đă phê b́nh cuốn sách ấy như sau, trong bức thư ngỏ gửi ông Robert McNamara, cựu B Trưởng Quốc Pḥng Mỹ: "Tôi vẫn nghĩ, cũng như dư luận vẫn nghĩ: cuốn In Retrospect chỉ là suy tư của ông sau này, được viết ra để chạy tội cho bản thân ông, chạy tội cho nước Mỹ và để làm yên ổn lương tâm những con buôn Mỹ đang muốn nhẩy vào Việt Nam ."

2 - Cuốn phim "A Television History of Vietnam" của Stanley Karnow. Đây là một cuốn phim đề cao quá đáng b đi Bắc Việt và rất bất công và bất lợi cho quân đi Việt Nam Cộng Hoà (cuốn phim này đă được Cng Sản Việt Nam cho chiếu trên đài truyền h́nh Việt Nam, khoảng cuối năm 1986, dưới tựa đề "Việt Nam mt thiên lịch sử bằng truyền h́nh").

Những đề nghị trên đây nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu t́m hiểu lịch sử nước nhà của các bạn trong hiện tại và trong hoàn cảnh thiếu thốn sử liệu hiện nay. Tuy nhiên, về lâu về dài, một bộ sử đứng đắn, trung thực và đầy đủ sẽ rất cần thiết không những cho các bạn mà c̣n cho các thế hệ mai sau.

Phần II:

Những Suy Nghĩ Nhỏ Về Việc Viết Lại Lịch Sử Nước Nhà V́ có những thiếu sót, sai lầm hoặc quá sơ lược của những bộ sử bằng tiếng Việt xuất bản tại cả miền Bắc lẫn miền Nam và nhiều điều sai sự thật (sử xuất bản bởi các cơ quan, nhà xuất bản của Cộng Sản Việt Nam) nên việc soạn lại lịch sử dân tộc ta để có mt "bộ sử thật là đích đáng, kê cứu và phê b́nh rất tường tận" (như ông Trần Trọng Kim trước đây đă ước mong) là điều rất cần thiết và cần được khởi đầu càng sớm càng tốt.

Vốn không phải là nhà sử học chuyên nghiệp mà chỉ là người thích học sử nước nhà, chúng tôi không thể đưa ra một đề nghị có hệ thống, một chương tŕnh tu thư thật đầy đủ; chúng tôi cũng không muốn làm cái việc quá sức ḿnh là đề ra một phương pháp soạn sử, một quan niệm về lịch sử hay nói cách khác, một lối kiến giải về cuộc tiến hóa của xă hội, dù đó là kinh tế sử quan, duy vật sử quan hay bất kỳ một thứ ǵ khác. Đây là công việc của một nhóm, một uỷ ban chuyên gia mà chúng tôi hy vọng được thành lập thật sớm.

Chúng tôi chỉ xin đưa ra mt vài ư kiến nhỏ về những khiếm khuyết trong các bộ sử Việt Nam đă được phát hành, đồng thời thử bàn về vấn đề liệu có thể qui tụ được hay không một nhóm có nhiệm vụ xúc tiến việc thành lập một uỷ ban tu chính sử sách hay một hội nghiên cứu lịch sử mà không phải đợi đến lúc hội đủ điều kiện, mới làm hoặc "những bậc tài danh ra công giúp nước ta về việc học sử" như ông Trần Trọng Kim đă viết trong cuốn Việt Nam Sử Lược của ông.

Những khiếm khuyết sở dĩ có, trước hết là do lối chép sử theo lối biên niên, nghĩa là năm, tháng nào có chuyện ǵ quan trọng th́ sử quan chép vào sách và chép một cách vắn tắt, cốt là ghi chỉ chuyện ấy mà thôi. Làm như vậy, không khác ǵ làm "Kư sự niên đại" (chronicle), không có sự phân tích hay lư giải (interpretation). Như vậy khác với việc làm sử (history), v́ sử "không những chỉ dể ghi chép những công việc đă qua mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn, t́m ṭi cái căn nguyên của những công việc người ta đă làm để hiểu cho rơ nh"ng vận hi trị loạn của mt nước, những tŕnh đ tiến hóa của một dân tộc." (Trần Trọng Kim - Việt Nam Sử Lược).

Các sử quan đă được nhà vua chọn lựa, chắc chắn phải là những vị thâm nho, "làu thông kinh sử, Bách gia, Chư tử, Cửu Lưu, Tam giáo", lẽ nào không biết điều đó và tất nhiên, phải biết đến các b sử đă có từ đời vua Nghiêu (2357 - 2256 trước Tây Lịch) vua Thuấn (2255 - 2206 tr. TL), đặc biệt là hai bộ Xuân Thu của Khổng Tử và Sử Kư của Tư Mă Thiên.

Bộ Xuân Thu chép truyện nước Lỗ từ năm 722 tới năm 481 trước Tây lịch, và cũng chép luôn cả truyện các nước chư hầu khác liên quan tới nước Lỗ nữa, truyện ở triều đ́nh, truyện ngoại giao, chiến tranh và cả những thiên tai như đng đất, lụt, nhật thực v.v... Xét về tinh thần th́ bộ đó có chứa mt triết lư về chính trị, đó là thuyết "chính danh định phận" của Khổng Tử.

Ông đă soạn ra bộ đó với mục đích răn đời. Mục đích răn đời là mục đích phổ biến của tất cả các sử gia chân chính thời đó chứ không phải của riêng Khổng Tử.

Tư Mă Thiên là người đầu tiên chép lại hết các thời đại cho tới đời ông. B Sử Kư của ông chép việc bắt đầu từ thời Hoàng Đế (2698 - 2597 tr. TL) đến niên hiệu Thái Sơ đời Hán Vũ Đế (104 - 103 tr. TL), tức là khoảng hai ngh́n rưỡi năm. Ngoài công phu lớn lao của ông trong việc chép sử, đối chiếu các niên đại khác nhau của hàng chục nước chư hầu thế nào cho các niên đại được phù hợp, ông c̣n nhiều sáng kiến đc đáo, ghi lại được nhiều h́nh thái của nền văn hóa cổ Trung Hoa. Ông là người đầu tiên chú trọng đến đời sống kinh tế và xă hội, chép về sông ng̣i, thương mại..., nhận xét về các di tích, ngôn ngữ, cảnh sinh hoạt, nỗi vui buồn của dân chúng. "Tóm lại, sử, theo Tư Mă Thiên, là tấm gương để ôn cố mà tri tân, là một thứ "thông giám" soi trong đó, người ta thấy được những đắc thất của người xưa, để rút ra những bài học về "cách tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ ở thời ḿnh. Sử là một bộ luân lư, triết lư, nhưng không viết bằng những "không ngôn" mà viết bằng những thực sự, bằng những vinh nhục, những hoan lạc và thống khổ của loài người. Quan niệm đó là quanniệm chung của mọi dân tộc cho tới thế kỷ XIX" (Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê - Sử Kư của Tư Mă Thiên).

Xét trên quan niệm đó th́ lối chép sử biên niên và ghi vắn tắt những chuyện quan trọng của các sử quan của chúng ta quả là có nhiều khiếm khuyết.

Tuy nhiên, cũng có những vị sử quan đă vượt qua khỏi sự g̣ bó của lối chép sử biên niên để soạn ra những bộ thông sử nói về các việc xảy ra trong những thời đại liên tiếp nhau, tương tự như, nhưng dĩ nhiên hạn hẹp hơn, bộ Sử Kư của Tư Mă Thiên. Hai b thông sử đầu tiên của nước ta là b Đại Việt Sử Kư, gồm 30 quyển chép từ đời Triệu Vơ Vương, đến đời Lư Chiêu Hoàng, của Lê Văn Hưu khi ông c̣n làm Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu vào đời Trần và bộ Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, chép từ đời Hồng Bàng đến đời Lê Thái Tổ, của Ngô Sĩ Liên, nguyên Lễ b tả thị lang kiêm biên soạn tại Quốc sử quán dưới thời Lê Thánh Tôn. Ông Ngô Sĩ Liên đă tiếp thu truyền thuyết về họ Hồng Bàng trong cuốn Lĩnh Nam Trích Quái do Trần Thế Pháp soạn vào cuối đời Trần để viết nên "Kỷ họ Hồng Bàng" trong phần Ngoại kỷ của b Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, làm cơ sở cho các bộ sử kế tiếp như Việt Sử Tiêu Án (của Ngô Th́ Sĩ) và Khâm Định Việt Sử Thông giám Khâm Mục (của Quốc Sử quán triều Nguyễn).

Việc Ngô Sĩ Liên Mạnh dạn đưa thời Hùng Vương vào chính sử là một việc làm có ư nghĩa nêu cao lịch sử lâu dài của Đất Nước; nó biểu hiện quan điểm lịch sử của ông về lịch sử khởi nguyên dân tộc Việt Nam. Nhưng v́ tính chất huyền thoại của truyền thuyết nên cho đến nay vẫn c̣n nhiều băn khoăn, nghi ngờ. Do đó, đă có những tranh luận gay gắt tập trung vào chuyện khẳng và phủ định truyền thuyết ấy. Vào năm 1972, ban Tu thư Đại Học Vạn Hạnh phát hành cuốn "Lục Đ Tập Kinh Và Lịch Sử Khởi Nguyên Dân Tộc Ta" của tiến sĩ Lê Mạnh Thát (Thượng Tọa Trí Siêu); theo tác giả, cuốn sách này "được viết ra nhằm công bố một số tư liệu và kết quả nghiên cứu sơ bộ về giai đoạn cổ đại của lịch sử Việt Nam. Thứ nhất là truyền thuyết trăm trứng (...) xuất hiện trong Lục Đ Tập Kinh được dịch từ tiếng Việt ra tiếng Hán vào năm 257. Thứ hai, từ việc truy lại nguồn gốc trăm trứng, chúng ta phát hiện tiếp truyện Thục An Dương Vương và Triệu Đà chỉ là những hư cấu do tác đng của thiên anh hùng ca Mahàbhàrata nổi tiếng của Ấn Đ (...). Các triều đại Thục và Triệu phải đẩy ra khỏi lịch sử dân tc ta, do đó không có việc Hán Vũ Đế thôn tính nước ta vào năm 110 tr. TL. Thứ ba, triều đại HùngVương v́ vậy vẫn c̣n tồn tại cho tới khi Hai Bà Trưng thất bại trong cuc chiến tranh vệ quốc năm 43 sau dương lịch."



-- Nong bi dai' (vietnamcongsans@yahoo.com), August 02, 2004.


Response to Tìm sĂ¡ch Quốc Văn GiĂ¡o Khoa Thư cũ của cụ Trần Trọng Kim

Tác giả không khẳng định mà cũng không phủ định truyền thuyết, v́ dân tộc nào cũng vậy, vào lúc ban sơ, ai cũng muốn t́m một gốc tích thần tiên cho vẻ vang ṇi giống của ḿnh; tác giả chú trọng nhiều hơn đến thời gian xuất hiện của truyền thuyết này, thời gian này không thể chậm hơn tiền bán thế kỷ thứ II, sau dương lịch, tức là trong khoảng thời gian Lục Đ Tập Kinh xuất hiện. Như vậy truyền thuyết lịch sử khởi nguyên dân tộc ta có mt lịch sử hết sức lâu dài. Ông nói: "Có lẽ nhờ có lịch sử lâu dài ấy mà nhân dân ta đă không bị người Trung Quốc đồng hóa như nhiều dân tc khác, khi bị tạm thời hút vào quỹ đạo của nó."

Trong phần kết luận tác giả khẳng định: "Triều đại Hùng Vương chấm năm 43 sau DL có mt văn hóa điển chương của nó, với Việt Luật, Việt Ca, truyện trăm trứng và mt loạt các truyện khác thể hiện thế giới quan của người Việt thời đó. Và ấy là chưa kể thuyền đồng, trống đồng cùng các di vật khảo cổ học hiện đă t́m thấy, biểu thị tŕnh đ khoa học kỹ thuật của một xă hi văn minh, có phong tục tập quán riêng, có lối sống phong cách riêng, bc l bằng các hoa văn trên các di vật này. Đặc biệt, ngôn ngữ Việt vào thời Hùng Vương đă phát triển tới một mức độ chính xác cao, để có thể phát biểu các qui ước xă hi thành văn bản luật của Việt luật. Và một hệ thống ch" viết đủ linh hoạt để ghi lại những văn bản ấy cho việc sử dụng và phổ biến."

Trong mt tác phẩm khác, cuốn "Nghiên Cứu Về Mâu Tử" cũng do ban Tu thư Vạn Hạnh phát hành vào năm 1982, tiến sĩ Lê Mạnh Thát lại nêu ra nhiều vấn đề liên quan đến lịch sử Việt Nam vào thời Hùng Vương. Chẳng hạn như vấn đề Phật Giáo truyền vào nước ta từ thời nào. Theo những sử sách chúng ta được đọc bấy lâu nay như các cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, Việt Nam Văn Hóa Sử Cương của Đoài Duy Anh, Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm v.v... th́ Phật giáo được truyền sang nước ta nhờ các vị sư Tàu và Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ II. thứ III sau TL. Theo ông Lê Mạnh Thát th́ "nếu Phật giáo không truyền vào nước ta thời vua A Dục (thế kỷ thứ III trước TL) th́ chắc chắn vào thượng bán thế kỷ thứ I sau TL. Phật giáo đă tồn tại để cho truyền thuyết dân gian Việt Nam ghi lại sự xuất gia của mt vị n" tướng của Hai Bà Trưng là Bát Nàn Phu Nhân, sau khi cuc kháng chiến vệ quốc năm 39 - 43 thất bại và việc trồng hoa Uất Kim Hương để cúng Phật do Dương Phù chép lại vào năm 100 sau TL1.

Sự kiện nói trên "đưa tới một số hệ luận đáng quan tâm, không những đối với lịch sử Phật giáo Việt Nam, mà c̣n đối với lịch sử tư tưởng và văn học Việt Nam, trong đó việc nổi bật nhất là việc ra đời tác phẩm văn học tư tưởng Phật giáo xưa nhất do người bản xứ viết (...) đó là Lư Hoặc Luận của Mậu Tử."

Những nhận định của tác giả trong hai tác phẩm đă dẫn đưa đến việc bài bác một số điểm được tŕnh bày trong các bộ sử nước ta, từ Đại Việt Sử Kư Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên cho đến Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thông qua Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Xin đơn cử một việc: Các sách sử ấy đă liên tục lập lại những tŕnh bày của Hậu Hán Thư của Tàu, theo đó th́ Tích Quang, thái thú quận Gia Chỉ từ đời vua B́nh Đế nhà Tây Hán, vào quăng năm thứ hai, thứ ba về thế kỷ thứ I "đă hết ḷng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa", c̣n Nhâm Diên, thái thú quận Cửu Chân từ năm Kiến Vơ nhà Đông Hán th́ "Dạy dân dùng cầy bừa mà khai khẩn rung đất, lại dạy dân làm lễ cưới hỏi trong khi lấy vợ lấy chồng". Các sử gia của chúng ta đă không chịu kiểm tra xem những tŕnh bày ấy chính xác đến mức nào, v́ ngoài Hậu Hán Thư, c̣n có những nguồn tin khác có thể đáng tin cậy hơn. Chẳng hạn Hậu Hán Thư nói Nhâm Diên "dạy dân ta cầy cấy rung đất"; như thế là ám chỉ rằng vào thời ấy người Việt ta có cuc sống quá thấp kém, không cách biệt với lối sống hái lượm của loài vật là bao nhiêu, nên Nhâm Diên phải bày cho họ cách làm rung. Nhưng ngoài Hậu Hán Thư ra, c̣n có nhiều sách cũng đề cập đến vấn đề cày cấy (canh lê) của dân ta. Thí dụ như sách Thủy Kinh Chú 33 nói rằng: "Gia Chỉ lúc chưa có quận huyện, đất đai có rung Lạc. Rung ấy theo nước triều lên xuống, dân khai khẩn ăn rung đó, gọi là Lạc dân, đặt Lạc vương, Lạc Hầu để làm chủ các quận, huyện. Huyện phần nhiều do Lạc tướng. Lạc tướng có ấn đồng, giải xanh."

Tác giả b́nh luận: "Thế đă rơ, ngay vào hồi Lạc hầu lạc tướng, khi chính quyền Hùng Vương đang c̣n, người Việt đă biết cày cấy trên rung Lạc của ḿnh. Nền nông nghiệp Việt Nam vào lúc ấy như thế đă phát triển tới mt tŕnh đ cao, huy đng các kiến thức thủy văn và thổ những để phục vụ cho công tác sản xuất. Lợi dụng nước triều lên xuống, lợi dụng số phù sa đưa vào, khoa nông nghiệp thời Hùng Vương đă biết phát huy tác dụng của nh"ng hiện tượng tự nhiên vào việc phục vụ nâng cao cuc sống con người (...). Nếu nền nông nghiệp vào giai đoạn cuối của chính quyền Hùng Vương đă phát triển như thế th́ có lẽ ǵ để cho Tích Quang và Nhâm Diên dạy vẽ cày cấy."

Tŕnh bày hai tác phẩm của tác giả Lê Mạnh Thát, tới đây tuy chưa được bao nhiêu, nhưng tưởng cũng đủ để nói lên điều mà chúng tôi muốn thưa với các bạn dọc. Sở dĩ nói dông dài về ông Lê Mạnh Thát và các tác phẩm của ông, không phải là để đề cao ông - mặc dù ông rất đáng được đề cao - mà v́ ông đă mạnh dạn đưa ra nh"ng kết quả nghiên cứu của ông, khác hẳn với những điều đă được các sử gia trước đây đă viết ra trong sử sách của họ, và ông đă thẳng thắn đề nghị "học giới cũng bàn bạc để đi tới việc biên soạn lại một bộ sử Việt Nam mới chính xác và rơ ràng hơn, đặc biệt đối với triều đại Hùng Vương của giai đoạn cổ sử"; ông cũng đă t́m cách giải đáp một số vấn nạn, lịch sử về thời ấy và đă can đảm bài bác những sai lầm của các sử gia có tên tuổi. Cùng năm 1972 (không rơ trước hay sau cuốn "Lục Đ tập Kinh Và Lịch Sử Khởi Nguyên Của Dân Tộc Ta, xuất bản 1972) ông đă cùng với ông Lê Xuân Liêu biên soạn và phát hành tài liệu nhan đề "Thử Viết Lại Lịch Sử Dân Tộc Ta". Từ đó đến nay, nếu chúng tôi không lầm, th́ đề nghị của ông không có một tiếng vang. Đó cũng là số phận dành cho ông Trần Trọng Kim là "sẽ có những bậc tài danh ra công giúp nước ta về việc học sử."

Nay chúng tôi xin đánh bạo nhắc lại đề nghị của hai vị ấy. Chúng tôi không dám nói đến những câu như "bổn phận đối với giới trẻ hiện nay và các thế hệ tương lai". Chúng tôi chỉ xin bàn đến "tính các khả thi" (feasibility) của việc soạn lại lịch sử. Xưa nay công việc viết sử thường là công tŕnh của một cá nhân có tài, có ḷng với đất nước, có công nghiên cứu, t́m ṭi. Nay nếu có mt nhóm các vị học giả có thiện chí, sẵn sàng dành th́ giờ cho việc chung th́ việc soạn lại lịch sử không phải là chuyện không tưởng. Chúng tôi đang liên lạc về vấn đề này với một hai có uy tín, có liên hệ mật thiết với các tổ chức văn hóa quốc tế như UNESCO, Centre Inter-Natinaol D'Etude Vietnamiennes, v.v... và, nếu các vị ấy đồng ư, th́ họ sẽ tiếp xúc với một số các vị chuyên gia để xúc tiến công việc lập kế hoạch và cố gắng t́m nguồn tài trợ để có phương tiện làm việc.

Không đi sâu vào công việc đa đoan và địa hay chuyên môn của nhóm tu chính sử sách (mà chúng ta hy vọng sẽ được thành lập nay mai), chúng tôi xin góp ư kiến về một vài khía cạnh của công việc này mà những kẻ "ngoại đạo" như chúng tôi cũng có đôi chút hiểu biết. Chẳng hạn như vấn đề tài liệu để viết sử. Nh́n vào bảng kê "những sách soạn giả dùng để kê cứu" ở cuốn bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, chúng ta thấy ghi 16 tên sách ch" nho và ch" quốc ng" và 10 cuốn sách tiếng Pháp; nghĩa là chỉ có sách của các tác giả Việt Nam (ngoại trừ hai cuốn Thanh Triều Sử Kư và Trung Quốc Lịch Sử, có lẽ của tác giả người Tàu) và Pháp. Như vậy khó có sự tham khảo rng răi, đối chiếu nguồn gốc, sử liệu để t́m ra sự thật và không khỏi có sự khiếm khuyết. Nhưng nhờ tác giả có học vấn uyên bác, có nhiều cố gắng nên cũng viết ra được một bộ sử đứng đắn, tuy rất sơ lược. Nếu đem so sánh với các tài liệu tham khảo dùng để soạn hai cuốn sách của tiến sĩ Lê Mạnh Thát th́ chúng ta thấy có sự khác biệt rất lớn gi"a hai bên về phương diện số lượng, loại mục và xuất xứ của các tài liệu; ông Lê Mạnh Thát, trong lúc soạn luận án tiến sĩ tại Hoa Kỳ đă được kê cứu nh"ng sách sử không những của Việt Nam, Pháp mà c̣n của Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản...tại các thư viện trường đại học và tiểu, liên bang Hoa Kỳ. Do đó đă có cái nh́n và nh"ng kết luận về lịch sử Việt Nam khác với các sử gia trước ông. Nay, nếu ta có một nhóm viết sử gồm nh"ng vị cư ngụ tại nhiều quốc gia khác nhau th́ các vị sẽ có thể sử dụng các nguồn tài liệu cô cùng phong phú tại Biliotheque Nationale (Pháp), British Library (Anh) hay Library of Congress (Hoa Kỳ) v.v... Sự t́m ṭi ở Trung Quốc, Đài Loan may ra có thể cho thấy manh mối về những sử sách bị người Tàu lấy mang về nước họ.

Để bổ sung cho những thiếu sót do sử liệu bị Trung Quốc sang đoạt hoặc bị thất lạc, hay tiêu hủy v́ chiến cuộc, các vị làm sử có thể suy luận từ kết quả của các cuc nghiên cứu về khảo cổ học,nhân chủng học, xă hi học, ngôn ngữ học, ca dao, tục ng" v.v... mà hiện nay chúng ta đă có khá nhiều chuyên gia về các lĩnh vực đó. Về vấn đề cng sản Việt Nam đặt điều thêu dệt, bóp méo sự thật, chúng ta khó thể đ̣i họ "trả lại sự thật cho lịch sử" v́ bản chất ngoan cố của họ, hoặc đợi cho "cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng ra" (câu nói cửa miệng của các cán b quản giáo nhằm chặn họng những người tù cải tạo mỗi khi đ̣i hỏi họ phải thành thật khai báo) hay nói như người Anh "the truth will out", th́ không biết bao giờ cái kim (hay sự thật) sẽ ra, trong lúc đó chúng ta đă có bao nhiêu nhân chứng, bao nhiêu bài viết, bao nhiêu cuốn sách nói sự thật về chiến tranh và cng sản Việt Nam, về quân dân miền Nam, chúng ta chỉ cần tập trung lại, sắp xếp, đối chiếu, hệ thống hóa th́ chúng ta sẽ có mt tài liệu trung thực cho bt sử tương lai của nước ta.

Trong lúc t́m hiểu sự thật, giải đáp nh"ng vấn nạn của lịch sử, soi sáng nh"ng chỗ c̣n mù mờ trong lịch sử dân tộc, hi vọng chúng ta sẽ t́m ra lư giải thích đáng về thái độ của nhân dân Việt Nam trong hai thời kỳ đen tối nhất của lịch sử, thời kỳ hơn ngh́n năm Bắc thuc và thời kỳ hiện nay dưới ách cộng sản, được biểu hiện qua lời than của sử gia Lê Văn Hưu: "Trưng Trắc, trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh lấy được 65 thành tŕ, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một ngh́n năm, người ḿnh cứ cúi đầu bó tay lam tôi tớ người Tàu mà không biết xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng!" hay nhận định của Dương Thu Hương trong bài viết mới đây ("Tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen") của nhà văn phái nữ này: "Chiến tranh không làm cho các công dân chín chắn hơn, không ngoan hơn, sử dụng quyền công dân mạnh bạo hơn mà ngược lại nó khiến đám đông hèn nhát hơn, dễ thỏa hiệp hơn với sự nhục nhă, dễ cúi đầu hơn trước tội ác."

Và đặc biệt, nói lên sự thật về chiến tranh Việt Nam để vạch trần dă tâm của cng sản nhằm áp đặt chế độ đệ tam quốc tế trên lănh thổ Việt Nam, cũng như trên toàn cơi Đông Dương và nói lên sự thiếu thủy chung của đồng minh Hoa Kỳ, chúng ta sẽ góp phần vào việc phục hồi danh dự cho quân dân miền Nam, để cho vonhg linh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa đă hi sinh v́ Tổ Quốc khỏi phải tủi hổ. Ít nhất, đó là bổn phận chúng ta phải làm tṛn đối với họ.

-- Nong bi dai' (vietnamcongsans@yahoo.com), August 02, 2004.


Response to Tìm sĂ¡ch Quốc Văn GiĂ¡o Khoa Thư cũ của cụ Trần Trọng Kim

Tác giả không khẳng định mà cũng không phủ định truyền thuyết, v́ dân tộc nào cũng vậy, vào lúc ban sơ, ai cũng muốn t́m một gốc tích thần tiên cho vẻ vang ṇi giống của ḿnh; tác giả chú trọng nhiều hơn đến thời gian xuất hiện của truyền thuyết này, thời gian này không thể chậm hơn tiền bán thế kỷ thứ II, sau dương lịch, tức là trong khoảng thời gian Lục Đ Tập Kinh xuất hiện. Như vậy truyền thuyết lịch sử khởi nguyên dân tộc ta có mt lịch sử hết sức lâu dài. Ông nói: "Có lẽ nhờ có lịch sử lâu dài ấy mà nhân dân ta đă không bị người Trung Quốc đồng hóa như nhiều dân tc khác, khi bị tạm thời hút vào quỹ đạo của nó."

Trong phần kết luận tác giả khẳng định: "Triều đại Hùng Vương chấm năm 43 sau DL có mt văn hóa điển chương của nó, với Việt Luật, Việt Ca, truyện trăm trứng và mt loạt các truyện khác thể hiện thế giới quan của người Việt thời đó. Và ấy là chưa kể thuyền đồng, trống đồng cùng các di vật khảo cổ học hiện đă t́m thấy, biểu thị tŕnh đ khoa học kỹ thuật của một xă hi văn minh, có phong tục tập quán riêng, có lối sống phong cách riêng, bc l bằng các hoa văn trên các di vật này. Đặc biệt, ngôn ngữ Việt vào thời Hùng Vương đă phát triển tới một mức độ chính xác cao, để có thể phát biểu các qui ước xă hi thành văn bản luật của Việt luật. Và một hệ thống ch" viết đủ linh hoạt để ghi lại những văn bản ấy cho việc sử dụng và phổ biến."

Trong mt tác phẩm khác, cuốn "Nghiên Cứu Về Mâu Tử" cũng do ban Tu thư Vạn Hạnh phát hành vào năm 1982, tiến sĩ Lê Mạnh Thát lại nêu ra nhiều vấn đề liên quan đến lịch sử Việt Nam vào thời Hùng Vương. Chẳng hạn như vấn đề Phật Giáo truyền vào nước ta từ thời nào. Theo những sử sách chúng ta được đọc bấy lâu nay như các cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, Việt Nam Văn Hóa Sử Cương của Đoài Duy Anh, Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm v.v... th́ Phật giáo được truyền sang nước ta nhờ các vị sư Tàu và Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ II. thứ III sau TL. Theo ông Lê Mạnh Thát th́ "nếu Phật giáo không truyền vào nước ta thời vua A Dục (thế kỷ thứ III trước TL) th́ chắc chắn vào thượng bán thế kỷ thứ I sau TL. Phật giáo đă tồn tại để cho truyền thuyết dân gian Việt Nam ghi lại sự xuất gia của mt vị n" tướng của Hai Bà Trưng là Bát Nàn Phu Nhân, sau khi cuc kháng chiến vệ quốc năm 39 - 43 thất bại và việc trồng hoa Uất Kim Hương để cúng Phật do Dương Phù chép lại vào năm 100 sau TL1.

Sự kiện nói trên "đưa tới một số hệ luận đáng quan tâm, không những đối với lịch sử Phật giáo Việt Nam, mà c̣n đối với lịch sử tư tưởng và văn học Việt Nam, trong đó việc nổi bật nhất là việc ra đời tác phẩm văn học tư tưởng Phật giáo xưa nhất do người bản xứ viết (...) đó là Lư Hoặc Luận của Mậu Tử."

Những nhận định của tác giả trong hai tác phẩm đă dẫn đưa đến việc bài bác một số điểm được tŕnh bày trong các bộ sử nước ta, từ Đại Việt Sử Kư Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên cho đến Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim thông qua Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Xin đơn cử một việc: Các sách sử ấy đă liên tục lập lại những tŕnh bày của Hậu Hán Thư của Tàu, theo đó th́ Tích Quang, thái thú quận Gia Chỉ từ đời vua B́nh Đế nhà Tây Hán, vào quăng năm thứ hai, thứ ba về thế kỷ thứ I "đă hết ḷng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa", c̣n Nhâm Diên, thái thú quận Cửu Chân từ năm Kiến Vơ nhà Đông Hán th́ "Dạy dân dùng cầy bừa mà khai khẩn rung đất, lại dạy dân làm lễ cưới hỏi trong khi lấy vợ lấy chồng". Các sử gia của chúng ta đă không chịu kiểm tra xem những tŕnh bày ấy chính xác đến mức nào, v́ ngoài Hậu Hán Thư, c̣n có những nguồn tin khác có thể đáng tin cậy hơn. Chẳng hạn Hậu Hán Thư nói Nhâm Diên "dạy dân ta cầy cấy rung đất"; như thế là ám chỉ rằng vào thời ấy người Việt ta có cuc sống quá thấp kém, không cách biệt với lối sống hái lượm của loài vật là bao nhiêu, nên Nhâm Diên phải bày cho họ cách làm rung. Nhưng ngoài Hậu Hán Thư ra, c̣n có nhiều sách cũng đề cập đến vấn đề cày cấy (canh lê) của dân ta. Thí dụ như sách Thủy Kinh Chú 33 nói rằng: "Gia Chỉ lúc chưa có quận huyện, đất đai có rung Lạc. Rung ấy theo nước triều lên xuống, dân khai khẩn ăn rung đó, gọi là Lạc dân, đặt Lạc vương, Lạc Hầu để làm chủ các quận, huyện. Huyện phần nhiều do Lạc tướng. Lạc tướng có ấn đồng, giải xanh."

Tác giả b́nh luận: "Thế đă rơ, ngay vào hồi Lạc hầu lạc tướng, khi chính quyền Hùng Vương đang c̣n, người Việt đă biết cày cấy trên rung Lạc của ḿnh. Nền nông nghiệp Việt Nam vào lúc ấy như thế đă phát triển tới mt tŕnh đ cao, huy đng các kiến thức thủy văn và thổ những để phục vụ cho công tác sản xuất. Lợi dụng nước triều lên xuống, lợi dụng số phù sa đưa vào, khoa nông nghiệp thời Hùng Vương đă biết phát huy tác dụng của nh"ng hiện tượng tự nhiên vào việc phục vụ nâng cao cuc sống con người (...). Nếu nền nông nghiệp vào giai đoạn cuối của chính quyền Hùng Vương đă phát triển như thế th́ có lẽ ǵ để cho Tích Quang và Nhâm Diên dạy vẽ cày cấy."

Tŕnh bày hai tác phẩm của tác giả Lê Mạnh Thát, tới đây tuy chưa được bao nhiêu, nhưng tưởng cũng đủ để nói lên điều mà chúng tôi muốn thưa với các bạn dọc. Sở dĩ nói dông dài về ông Lê Mạnh Thát và các tác phẩm của ông, không phải là để đề cao ông - mặc dù ông rất đáng được đề cao - mà v́ ông đă mạnh dạn đưa ra nh"ng kết quả nghiên cứu của ông, khác hẳn với những điều đă được các sử gia trước đây đă viết ra trong sử sách của họ, và ông đă thẳng thắn đề nghị "học giới cũng bàn bạc để đi tới việc biên soạn lại một bộ sử Việt Nam mới chính xác và rơ ràng hơn, đặc biệt đối với triều đại Hùng Vương của giai đoạn cổ sử"; ông cũng đă t́m cách giải đáp một số vấn nạn, lịch sử về thời ấy và đă can đảm bài bác những sai lầm của các sử gia có tên tuổi. Cùng năm 1972 (không rơ trước hay sau cuốn "Lục Đ tập Kinh Và Lịch Sử Khởi Nguyên Của Dân Tộc Ta, xuất bản 1972) ông đă cùng với ông Lê Xuân Liêu biên soạn và phát hành tài liệu nhan đề "Thử Viết Lại Lịch Sử Dân Tộc Ta". Từ đó đến nay, nếu chúng tôi không lầm, th́ đề nghị của ông không có một tiếng vang. Đó cũng là số phận dành cho ông Trần Trọng Kim là "sẽ có những bậc tài danh ra công giúp nước ta về việc học sử."

Nay chúng tôi xin đánh bạo nhắc lại đề nghị của hai vị ấy. Chúng tôi không dám nói đến những câu như "bổn phận đối với giới trẻ hiện nay và các thế hệ tương lai". Chúng tôi chỉ xin bàn đến "tính các khả thi" (feasibility) của việc soạn lại lịch sử. Xưa nay công việc viết sử thường là công tŕnh của một cá nhân có tài, có ḷng với đất nước, có công nghiên cứu, t́m ṭi. Nay nếu có mt nhóm các vị học giả có thiện chí, sẵn sàng dành th́ giờ cho việc chung th́ việc soạn lại lịch sử không phải là chuyện không tưởng. Chúng tôi đang liên lạc về vấn đề này với một hai có uy tín, có liên hệ mật thiết với các tổ chức văn hóa quốc tế như UNESCO, Centre Inter-Natinaol D'Etude Vietnamiennes, v.v... và, nếu các vị ấy đồng ư, th́ họ sẽ tiếp xúc với một số các vị chuyên gia để xúc tiến công việc lập kế hoạch và cố gắng t́m nguồn tài trợ để có phương tiện làm việc.

Không đi sâu vào công việc đa đoan và địa hay chuyên môn của nhóm tu chính sử sách (mà chúng ta hy vọng sẽ được thành lập nay mai), chúng tôi xin góp ư kiến về một vài khía cạnh của công việc này mà những kẻ "ngoại đạo" như chúng tôi cũng có đôi chút hiểu biết. Chẳng hạn như vấn đề tài liệu để viết sử. Nh́n vào bảng kê "những sách soạn giả dùng để kê cứu" ở cuốn bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, chúng ta thấy ghi 16 tên sách ch" nho và ch" quốc ng" và 10 cuốn sách tiếng Pháp; nghĩa là chỉ có sách của các tác giả Việt Nam (ngoại trừ hai cuốn Thanh Triều Sử Kư và Trung Quốc Lịch Sử, có lẽ của tác giả người Tàu) và Pháp. Như vậy khó có sự tham khảo rng răi, đối chiếu nguồn gốc, sử liệu để t́m ra sự thật và không khỏi có sự khiếm khuyết. Nhưng nhờ tác giả có học vấn uyên bác, có nhiều cố gắng nên cũng viết ra được một bộ sử đứng đắn, tuy rất sơ lược. Nếu đem so sánh với các tài liệu tham khảo dùng để soạn hai cuốn sách của tiến sĩ Lê Mạnh Thát th́ chúng ta thấy có sự khác biệt rất lớn gi"a hai bên về phương diện số lượng, loại mục và xuất xứ của các tài liệu; ông Lê Mạnh Thát, trong lúc soạn luận án tiến sĩ tại Hoa Kỳ đă được kê cứu nh"ng sách sử không những của Việt Nam, Pháp mà c̣n của Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản...tại các thư viện trường đại học và tiểu, liên bang Hoa Kỳ. Do đó đă có cái nh́n và nh"ng kết luận về lịch sử Việt Nam khác với các sử gia trước ông. Nay, nếu ta có một nhóm viết sử gồm nh"ng vị cư ngụ tại nhiều quốc gia khác nhau th́ các vị sẽ có thể sử dụng các nguồn tài liệu cô cùng phong phú tại Biliotheque Nationale (Pháp), British Library (Anh) hay Library of Congress (Hoa Kỳ) v.v... Sự t́m ṭi ở Trung Quốc, Đài Loan may ra có thể cho thấy manh mối về những sử sách bị người Tàu lấy mang về nước họ.

Để bổ sung cho những thiếu sót do sử liệu bị Trung Quốc sang đoạt hoặc bị thất lạc, hay tiêu hủy v́ chiến cuộc, các vị làm sử có thể suy luận từ kết quả của các cuc nghiên cứu về khảo cổ học,nhân chủng học, xă hi học, ngôn ngữ học, ca dao, tục ng" v.v... mà hiện nay chúng ta đă có khá nhiều chuyên gia về các lĩnh vực đó. Về vấn đề cng sản Việt Nam đặt điều thêu dệt, bóp méo sự thật, chúng ta khó thể đ̣i họ "trả lại sự thật cho lịch sử" v́ bản chất ngoan cố của họ, hoặc đợi cho "cái kim bọc giẻ lâu ngày cũng ra" (câu nói cửa miệng của các cán b quản giáo nhằm chặn họng những người tù cải tạo mỗi khi đ̣i hỏi họ phải thành thật khai báo) hay nói như người Anh "the truth will out", th́ không biết bao giờ cái kim (hay sự thật) sẽ ra, trong lúc đó chúng ta đă có bao nhiêu nhân chứng, bao nhiêu bài viết, bao nhiêu cuốn sách nói sự thật về chiến tranh và cng sản Việt Nam, về quân dân miền Nam, chúng ta chỉ cần tập trung lại, sắp xếp, đối chiếu, hệ thống hóa th́ chúng ta sẽ có mt tài liệu trung thực cho bt sử tương lai của nước ta.

Trong lúc t́m hiểu sự thật, giải đáp nh"ng vấn nạn của lịch sử, soi sáng nh"ng chỗ c̣n mù mờ trong lịch sử dân tộc, hi vọng chúng ta sẽ t́m ra lư giải thích đáng về thái độ của nhân dân Việt Nam trong hai thời kỳ đen tối nhất của lịch sử, thời kỳ hơn ngh́n năm Bắc thuc và thời kỳ hiện nay dưới ách cộng sản, được biểu hiện qua lời than của sử gia Lê Văn Hưu: "Trưng Trắc, trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh lấy được 65 thành tŕ, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một ngh́n năm, người ḿnh cứ cúi đầu bó tay lam tôi tớ người Tàu mà không biết xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng!" hay nhận định của Dương Thu Hương trong bài viết mới đây ("Tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen") của nhà văn phái nữ này: "Chiến tranh không làm cho các công dân chín chắn hơn, không ngoan hơn, sử dụng quyền công dân mạnh bạo hơn mà ngược lại nó khiến đám đông hèn nhát hơn, dễ thỏa hiệp hơn với sự nhục nhă, dễ cúi đầu hơn trước tội ác."

Và đặc biệt, nói lên sự thật về chiến tranh Việt Nam để vạch trần dă tâm của cng sản nhằm áp đặt chế độ đệ tam quốc tế trên lănh thổ Việt Nam, cũng như trên toàn cơi Đông Dương và nói lên sự thiếu thủy chung của đồng minh Hoa Kỳ, chúng ta sẽ góp phần vào việc phục hồi danh dự cho quân dân miền Nam, để cho vonhg linh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa đă hi sinh v́ Tổ Quốc khỏi phải tủi hổ. Ít nhất, đó là bổn phận chúng ta phải làm tṛn đối với họ.

-- Nong bi dai' (vietnamcongsans@yahoo.com), August 02, 2004.


Response to Tìm sĂ¡ch Quốc Văn GiĂ¡o Khoa Thư cũ của cụ Trần Trọng Kim

Visit Link http://www.vn.net/printfeature.php?artid=51 !

Ban co the vao day download dung Arobat tron cuon''sach'

http://www.adobe.com/products/acrobat/

-- Nong bi dai' (vietnamcongsans@yahoo.com), August 02, 2004.



Response to Tìm sĂ¡ch Quốc Văn GiĂ¡o Khoa Thư cũ của cụ Trần Trọng Kim

Kính mời anh em gần xa nào muốn t́m hiểu lịch sử VN th́ hảy bấm vào cái link này lich sử VN có hơn 10 cuốn sử, các bạn nào muốn th́ download xuống và từ từ mà đọc. Chân thành cảm ơn anh em gần xa. Chào.

-- Khao Khat Cho VN Duoc Tu Do (khao_khat_cho_vn_duoc_tu_do@yahoo.com), August 03, 2004.

Moderation questions? read the FAQ