Tổng hợp toàn bộ tài liệu liên quan đến Quốc nạn đảng CSVN bán nước cho Trung Cộng để cầu vinh

greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread

Bắc Bộ Phủ toàn những tên Đầu Gấu, Sống vô tâm quanh bữa tiệc đầu lâu,
Ta cúi đầu - Cộng cỡi cổ, Ta đứng dậy - Cộng sụp đỗ

-------------------------------------------------------------------------------------------

'Ta thà làm quỉ nước Nam c̣n hơn làm vương đất Bắc'.

Trần B́nh Trọng

Cổ Luật Việt Nam: 'Ai bán ruộng đất nơi biên cương cho người nước ngoài th́ bị chém.'

[Chư mại biên cương điền thổ dữ ngoại quốc nhơn trảm.] Lê Triều H́nh Luật (Luật Hồng Đức), Điều 73.

Diễn đàn Dân Chủ: Bản đồ biên giới phía Bắc Việt Nam [NAM VIỆT] trước năm 111 (trước khi bị Trung quốc xâm chiếm) bao gồm Quảng Đông, Quảng Tây, bán đảo Quảng Châu Văn, đảo Hải Nam và cả vùng vịnh Bắc Việt. Do đó nhà Thanh đă nhanh chóng chấp nhận 37% diện tích Vịnh Bắc Bộ mà Pháp dâng hiến qua Hiệp Ước Thiên Tân. Thay v́ đ̣i lại vùng đất và biển đă mất trong Hiệp Ước Thiên Tân, đảng CSVN lại nhẫn tâm dâng nhượng thêm 11 ngàn cây số vuông diện tích Vịnh Bắc Bộ cho Trung quốc theo mật ước kư kết vào ngày 25-12-2000.

Kính mời quí vị ở trong nước hảy bấm vào cái link dưới đây để t́m hiểu tài liệu về biên giới giửa VN và TC, rất nhiều tài liệu để tham khao, không nên bỏ qua. Đă vượt qua bức tường lửa của nhà cầm quyền rồi. Nếu mà không, th́ nên dùng cái link dưới đây và copy and paste cái website này vào. Trân trọng cám ơn quí vị. TBT

Tài liệu liên quan đến Quốc nạn đảng CSVN bán nước cho Trung Cộng để cầu vinh

Vượt qua bức tường lửa

steps:
1. Vượt qua bức tường lửa
2. http://www.danchu.net/GeneralAdmin/0.TrangBienGioi.htm

-- Khao Khat Cho VN Duoc TU DO (Khao_Khat_Cho_VN_Duoc_TU_DO@hn.vnn.vn), June 30, 2004

Answers

Response to Tổng hợp toĂ n bộ tĂ i liệu liĂªn quan đến Quốc nạn đảng CSVN bĂ¡n nước cho Trung Cộng để cầu vinh

Hoàng Minh Chính: “Lănh đạo CSVN phản bội tổ quốc, nhân dân, tổ tông và lịch sử dân tộc”

Trich tu www.danchu.net

ORANGE COUNTY - Ông Hoàng Minh Chính, nguyên là Viện trưởng Viện triết Mác - Lê Nin (một cơ quan quan trọng của Trung ương Đảng CSVN), một người cùng với cựu tướng Trần Độ, ông Phạm Quế Dương ... đang đấu tranh đ̣i tự do dân chủ cho Việt Nam đă bật khóc nức nở khi lên tiếng tố cáo việc CSVN cắt đất, cắt biển dâng cho Trung Cộng trên đài Little Sài G̣n Radio lúc 12 giờ 20 phút ngày 31/01/2002, trong cuộc phỏng vấn do biên tập viên Đinh Quang Anh Thái thực hiện.

Theo ông Hoàng Minh Chính, dư luận trong nước lúc đầu không được biết rơ v́ lănh đạo CSVN giấu biệt hành động bán nước này. Thế nhưng, gần đây tin tức ấy lọt ra ngoài nhờ thông tin từ đồng bào ở Hải Ngoại qua mạng Internet v́ thế đồng bào trong nước bàn luận rất sôi nổi về hành động dâng đất dâng biển cho Bắc triều của nhà cầm quyền CSVN.

Ông Chính xác nhận tại Việt Nam có 20 người đấu tranh cho tự do dân chủ đă gởi thư phản đối việc lănh đạo CSVN đă cắt đất, cắt biển dâng cho Trung Cộng. Trong đó ngoài Bắc 14 vị như cựu trung tướng Trần Độ, ông Phạm quế Dương, ông Hoàng minh Chính ... Tại miền Nam có 6 vị, trong đó có một vị nguyên là phó bí thư xứ ủy miền Nam, một vị là thiếu tướng hai vị c̣n lại là các lăo thành cách mạng...

Giải thích lư do v́ sao lănh đạo CSVN lại kư kết hiệp định bán nước này, ông Chính cho biết là hiện nay đồng bào cũng đang suy nghĩ rất nhiều. V́ lịch sử suốt bốn ngàn năm chống ngoại xâm của Việt Nam, thật ra quân xâm lược phía Bắc mỗi lần đến bờ cơi Việt Nam đều bị đánh tan tác. Cách đây 700 năm quân Nguyên Mông đă 3 lần xâm lược th́ cả ba lần đều bị Hưng Đạo Đại Vương đánh cho tơi bời. Thời gian đó, thực sự th́ lực lượng quân xâm lược đông gấp hàng chục lần lực lượng kháng chiến Việt Nam (lúc ấy mới chỉ vài triệu người). Bây giờ là thời b́nh , người dân Việt Nam không hiểu tại sao các lănh đạo CSVN lại đan tâm dâng đất nước cho Bắc triều. Đó là vấn đề hiện nay tất cả mọi người đều rất phẫn nộ về hành vi hèn hạ khó hiểu đó.

Chuyện về chuyến công du Trung Cộng của Lê Khả Phiêu (lúc ấy đang là Tổng bí thư) bị Trung cộng gài bẫy mỹ nhân kế nhằm mục đích ép Lê Khả Phiêu kư kết hiệp định bán nước để củng cố địa vị lănh đạo của ḿnh. Ông Chính xác nhận là ông không được rơ lắm. Nhưng việc Lê Khả Phiêu bị mỹ nhân kế ở trong nước th́ rất nhiều. Tuy nhiên những chuyện ấy nhiều người trong nước không đặt thành vấn đề mà vấn đề quan tâm nhất ở đây là Lê Khả Phiêu đại diện cho ai. Và trong nước biết chính Bộ chính trị Đảng CSVN đă ra sai Lê Khả Phiêu thực hiện hành động bán đất bán nước này.

Theo ông Chính, dư luận trong nước chưa biết đích xác ai là người đặt bút kư chính thức bản hiệp định bán nước này. Chỉ biết rằng lănh đạo CSVN vào ngày 20/12/2001 đă kư hiệp định dứt khoát đối với Trung Cộng. Hai bên đă nhất trí là ngày 28/12/2001 bắt đầu cắm cột mốc biên giới mới đầu tiên. Cột mốc đó đi sâu vào phần đất của Việt Nam từ 5-6 km trong đó có Ải Nam Quan. Từ đó, lănh đạo CSVN lén lút không dám công khai vấn đề bán đất bán nước này. Dư luận bây giờ chỉ biết rơ qua nhiều nguồn tin là lănh đạo CSVN dâng cho Trung Cộng từ 720 - 1000 km2 đất liền và hàng chục ngàn km2 lănh hải của Việt Nam.

Con số dù chưa được chính xác, nhưng hành động dâng đất nước cho Bắc triều của lănh đạo CSVN đă rơ ràng. Họ đă chính thức công khai tuyên bố về vấn đề đó. Tuy nhiên lại không dám công khai tất cả các số liệu v́ họ thấy tội lỗi của họ quá nặng nề và quá xấu xa, quá đê tiện và hành động đó hoàn toàn phản bội tổ quốc , phản bội tổ tông, phản bội nhân dân, phản bội tất cả lịch sử của dân tộc đă giữ vững được độc lập và toàn vẹn lănh thổ suốt 4000 năm lịch sử.

Đến bây giờ họ đă bôi nhọ vào thành tích đấu tranh của toàn dân. Trong đó không chỉ đồng bào ở trong nước mà c̣n có cả đồng bào ở Hải Ngoại. V́ tội lỗi lớn lao nặng nề, xấu xa, hèn hạ ấy mà đến bây giờ họ vẫn quyết tâm giấu biệt tất cả tất cả những số liệu rơ ràng. Phản ứng của đồng bào trong nước đối với sự kiện này ra sao?

Ông Chính cho biết: "Hiện nay theo thông tin mà tôi được biết th́ đồng bào trong nước rất sôi sục và phẫn nộ. Nhiều người thậm chí khi nghe tin này đă khóc ngất đi (Ông Chính nói đến đây cũng khóc lặng đi một lúc). Tuy nhiên, đa số đồng bào chưa được biết rơ về hành động bán nước này. Người nào biết, họ đều căm phẫn. Chúng tôi cũng đang phổ biến thông tin này cho đồng bào được biết rơ hơn. Nhờ thông tin của đồng bào Hải Ngoại phát trên Internet do đó đồng bào trong nước mới có điều kiện để tiếp cận thông tin vui mừng phấn khởi v́ đồng bào Hải Ngoại nhất trí với đồng bào trong nước bảo vệ biên cương đất nước".

Tâm sự với đồng bào Hải Ngoại, ông Chính xúc động: "Trước hết tôi hoàn toàn hiểu đồng bào Hải Ngoại. Đồng bào ra đi cũng chỉ v́ những kẻ bán đất nước, làm tay sai cho ngoại bang do đó đồng bào mới buộc ḷng rời xa tổ quốc. Đồng bào Hải Ngoại vẫn mang trong ḷng một t́nh yêu sâu xa đối với quê hương đất nước, vẫn tha thiết bảo toàn sự toàn vẹn lănh thổ, vùng biển, vùng trời của tổ quốc. Hôm nay đồng bào lại tha thiết để làm sao khôi phục lại sự toàn vẹn lănh thổ để nhân dân trong nước và đồng bào Hải Ngoại được xum họp một nhà. Nên tôi rất kính trọng và cảm thông với đồng bào Hải Ngoại, quí trọng cái t́nh yêu cao quí ấy.

Tôi xin thay mặt tất cả những người chân thành yêu nước ở trong nước sẵn sàng đón chờ đồng bào Hải Ngoại để chúng ta gặp mặt nhau và xây dựng một đất nước Việt Nam ḥa b́nh, thống nhất, độc lập và hạnh phúc. Tuy nhiên từ đây cho đến lúc ấy c̣n đ̣i hỏi nhiều sự hy sinh gian khổ. Chúng ta sẽ hết ḷng cùng nhau tiến tới cái ngày đẹp đẽ ấy mà chúng ta hằng mong chờ.

-- Khao Khat Cho VN Duoc TU DO (Khao_Khat_Cho_VN_Duoc_TU_DO@hn.vnn.vn), June 30, 2004.


Response to Tổng hợp toĂ n bộ tĂ i liệu liĂªn quan đến Quốc nạn đảng CSVN bĂ¡n nước cho Trung Cộng để cầu vinh

Ba Làng Việt Tộc Trong Nội Địa Biên Thùy Trung Quốc

Trich tu www.danchu.net - Lê Văn Lân - Viet Mercury, 1/12/00

Ba làng người "Trung Hoa gốc Việt tộc" đang sinh sống phát triển trong nội địa nước Tầu hiện nay không phải là một điều bí mật hay rất ít người biết nữa như trước đây. Trái lại, nó được chính thức kể như một trong số hơn 50 sắc dân thiểu số tại Trung Hoa, chiếm cứ khoảng 6.6% toàn thể của dân số của quốc gia này là 1.3 tỉ nhân khẩu.

Riêng về Việt tộc - c̣n gọi chính thức là Kinh tộc (the Jings) - có con số nhân khẩu khiêm tốn gồm khoảng hơn 15,000 người, tụ cư sinh sống trong ba ḥn đảo nhỏ là Vạn Vĩ (Wanwei), Ô Đầu (Wutou) và Sơn Tâm (Shanxin) trong vùng tỉnh Quảng Tây. H́nh ảnh cô gái Việt hay Kinh tộc xinh đẹp với cái nón lá h́nh chóp đă được tài liệu hay bích chương du lịch của Trung Hoa trưng lớn lên như mời mọc du khách quốc tế.

Tôi tự hỏi tại sao người Việt ḿnh ngày nay sẵn sàng đi du lịch Trung Quốc một cách dễ dàng lại không tạo dịp đi thăm ba làng Việt tộc nói trên. Trước hết là tỏ một mối t́nh thâm trầm man mác đối với những người vốn là đồng bào đồng tộc với chúng ta nhưng v́ hoàn cảnh lịch sử xa xưa lại không c̣n ở chung một địa bàn địa lư với chúng ta; sau là chúng ta có dịp sưu tầm lại những di sản quí báu về tinh thần mà những người Việt tộc này vẫn c̣n lưu giữ sau gần 500 năm xa ĺa quê hương gốc như 30 điệu hát đúm vào ngày hội Tết đầu xuân và những tài liệu viết bằng chữ Nôm của họ.

Mục tiêu vấn đề du lịch thăm ba làng Việt tộc ở Trung Quốc là như thế nhưng muốn thực hiện chúng ta cần phải thu thập những yếu tố dữ kiện nào trên thực tế.

Sau đây là những điều cụ thể mà tôi đă tra cứu cẩn thận nên tŕnh bày ra để chia xẻ cho những ai đồng chí hướng thích sự ngao du thích thú sưu tầm:

Tài liệu về lịch sử và sự phát triển, sinh hoạt của những người Kinh hay Việt tộc (mà tôi tạm dùng chữ Kinh Việt viết tắt là KV trong bài này) được mô tả rất đầy đủ trong những sách của Trung Hoa như Dân Tộc Tri Thức Thủ Sách (Dân tộc Xuất bản xă năm 1982) viết bằng Hoa ngữ - China's Minority Nationalities (Foreign Language Press năm 1989) bằng Anh ngữ.

Qua hai tài liệu trên, chúng ta được đọc về Kinh Việt tộc như sau:

Nguồn gốc Kinh Việt tộc

Kinh tộc - ngày xưa xưng là Việt tộc - là một trong những dân thiểu số của Trung Hoo. Kinh Việt tộc chủ yếu nằm rải ra ở các địa khu của những dân tộc tự trị ở vùng duyên hải thuộc khu Pḥng Thành của tỉnh Quảng Tây. Theo thống kê 1982, Kinh Việt tộc có 11,995 nhân khẩu. Hồi trước Kinh Việt tộc là một bộ phận của ṇi Lạc Việt thời xa xưa, nhưng vào đầu thế kỷ thứ 16, họ đă từ vùng Đồ Sơn của Việt Nam hiện giờ lục tục di cư đến địa điểm bây giờ, tụ cư trên ba ḥn đảo nhỏ gọi là ba làng là Vạn vĩ, Vu đầu và Sơn Tâm thuộc huyện Giang B́nh nên người ta quen gọi là "Kinh tộc tam đảo."

Tiếng nói và Văn tự của người Kinh Việt thế nào?

"Dân Kinh Việt tộc tam đảo vốn nói tiếng Kinh hay Việt và có một văn tự gốc gọi là "chữ Nôm, nhưng từ lâu họ cũng nói tiếng địa phương Quảng Châu và xử dụng Hán tự."

Tiếng nói Kinh Việt

"Nguồn gốc Kinh ngữ (hay Việt ngữ) theo Dân tộc Từ điển của Thượng hải (1987) có thể thuộc vào hai giả thuyết trên ngữ hệ: thứ nhất là thuộc Hán Tạng ngữ hệ, thứ hai là thuộc Nam Á ngữ hệ. Theo sự phân tách của sách này, Kinh (hay Việt) ngữ rất gần tiếng các dân tộc Choang (Tráng) và Đồng được phân bố tại các huyện tự trị lân cận. Kinh Việt ngữ có 28 thanh mẫu, 106 vận âm. Nguyên âm KV chia thành nguyên âm dài và nguyên âm ngắn. Phụ âm vận ở cuối từ có 6 vận là: (- k), (-m),(-n),(-ng), (-p), (-t), ví dụ như cac(k), nam, man, mang, map, mat. Thanh điệu có năm bực là: trung b́nh, đê giáng, khúc triết, cao thăng, đê b́nh, tức là năm dấu giọng. Về ngữ pháp, dân KV không nói ngược như dân Hán như họ gọi Ông Thôn để chỉ chức trưởng thôn xă, Ông Kiểm để chỉ chức kiểm soát an ninh trật tự.

Chữ Nôm Kinh Việt

"Viết về chữ Nôm của ba làng KV này, tài liệu Anh ngữ ChinaỖs Minority Nationalities (CMN) nói thật rơ như sau: "Người Kinh có một thứ văn tự ghi chép riêng của họ gọi là chữ Nôm (chữ Hoa ghi là Tự Nam, chữ Anh phiên âm là Zinan). Được cấu tạo dựa trên căn bản của Hán tự vào cuối thế kỷ 13, chữ Nôm nay được lưu truyền trong những sách thi ca cũ và những bộ kinh tôn giáo." Chúng ta chưa thấy tự dạng và cấu trúc của nó ra sao, nhưng chắc chắn nó phải là chữ Nôm của Việt Nam vào cuối đời Hậu Lê chắc chắn nó phải cổ và chính thống hơn chữ Nôm của ta từ nhà Nguyễn về saụ Nếu ta sưu tầm được chữ Nôm Kinh Việt này, chúng ta có thể hiểu nhiều tiếng Việt thời cổ hơn.

Diễn biến quá tŕnh định cư của dân Kinh Việt

"Tổ tiên người Kinh di cư từ Việt Nam sang Trung Quốc vào khoảng đầu thế kỷ 16. Thuở ban đầu th́ họ định cư trên ba ḥn đảo không người ở v́ các vùng lân cận đă có người Hán và người Choang (Trang tộc) chiếm cứ sinh sống rồị Tuy sống chen vai thích cánh với người Hán và người Choang, người Kinh đă tạo dựng nên một khu lănh giới riêng cho ḿnh nhưng qua nhiều thế kỷ, họ đă hàn chặt nhiều mối liên lạc mật thiết với dân tộc láng giềng. Theo tài liệu bằng chữ Nôm mà người Kinh c̣n lưu giữ trong một ngôi đ́nh của họ, tổ tiên của Việt tộc tam đảo đă từ băi Đồ Sơn (tỉnh Hải Pḥng Việt Nam) đến vùng đất này vào năm Hồng Thuận. Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, Hồng Thuận vào cuối đời Hậu Lê tức là đời vua Lê Tương Dực (1510 - 1516), như vậy dân Kinh hay Việt tộc đă sinh sống lập nghiệp trên đất Trung Hoa gần như tṛm trèm 500 năm.

Hiện nay, chúng ta chưa rơ tại sao dân Kinh Việt lại di cư qua Trung hoa? V́ vùng đất của họ nằm gần như sát biên thùy Việt Hoa tức là huyện Móng Cáy tỉnh Quảng Ninh của Việt Nam ngó qua Đông Hưng của Trung Hoa, nên chúng ta có thể phóng đoán rằng ngày xưa giữa Trung Hoa và Việt Nam không có con đường phân định rơ ràng về biên giới có tọa độ rơ ràng. Do đó, đám người Kinh Việt cứ thấy vùng nào không có ai ở th́ tới cắm dùi lập nghiệp sinh sống, chẳng chính quyền nào kiểm soát. Lằn biên giới Hoa Việt mới chính thức vạch ra sau Hiệp ước Fournier-Lư Hồng Chương, chạy dọc theo kinh tuyến 108 độ 3 phút 13 giây, vùng nào về phía tây của kinh tuyến thuộc về Việt nam (thời ấy do Pháp đô hộ), c̣n vùng nào ở phía đông kinh tuyến th́ thuộc về lănh thổ Trung Hoa. Do đó, vùng đất mà dân Kinh Việt chiếm cứ định cư trong bao nhiêu thế kỷ bỗng nằm lọt vào lănh thổ Trung Quốc. Rồi trải bao nhiêu thời gian, dân Kinh Việt cứ yên thắm sống trong vùng mà nhà nước Trung Hoa gọi là "Tự trị khu" chung với những sắc dân thiểu số như Choang, Dao trong tỉnh Quảng Tây. Cho đến cuối 1952 - sau năm 1949 khi chính quyền Trung Cộng chiếm toàn lục địa Trung Hoa th́ mới bắt đầu thành lập ba thôn làng là Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm để rồi 1958 th́ ba làng Kinh Việt này hợp cùng các làng khác của dân Choang và Dao để làm thành huyện tự trị Đông Hưng. Vào cuối năm 1979 th́ các huyện tự trị này họp thành trấn Pḥng Thành tự trị cho đến nay.

-- Khao Khat Cho VN Duoc TU DO (Khao_Khat_Cho_VN_Duoc_TU_DO@hn.vnn.vn), June 30, 2004.


Response to Tổng hợp toĂ n bộ tĂ i liệu liĂªn quan đến Quốc nạn đảng CSVN bĂ¡n nước cho Trung Cộng để cầu vinh

Lan dau tien toi duoc nghe chuyen cong san ban nuoc cau vinh vi toi song o trong nuoc nen biet rat it nhung thong tin kieu "co mat" nhu vay.Nhung cac ban o nuoc ngoai theo bon mi chat dau nguoi Iraq thi cung co gi la ve vang dau?Chang qua la cung bam duoi bon nuoc ngoai lap ra may trang web re tien.Cac ban co dinh khoi nghia khong vay?Lat do dang cong san de lam kho nhan dan ah?

-- quang vinh (blackcardio@yahoo.com), June 30, 2004.

Response to Tổng hợp toàn bộ tài liệu liên quan đến Quốc nạn đảng CSVN bán nước cho Trung Cộng để cầu vinh

CUỘC TRANH ĐẤU CHO TỰ DO, DÂN CHỦ VÀ CUỘC TRANH ĐẤU CHỐNG CỘNG SẢN ĐỘC TÀI KHÁC NHAU VÀ GIỐNG NHAU THẾ NÀO

Trich tu www.conong.com - Chu chi Nam

Cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ và cuộc đấu tranh chống cộng sản độc taiø, có nhiều người cho là hoàn toàn giống nhau ; người khác th́ nghĩ ngược lại. Vậy đâu là những điểm tương đồng ; đâu là những điểm dị biệt ?

I) Cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ Tự do, dân chủ là ǵ ?

- Tự do là những quyền căn bản của con người đi từ quyền tự do đi lại, tự do sinh sống, tự do mưu cầu hạnh phúc, qua quyền tự do tín ngưỡng,tư tưởng, ngôn luận, tư hữu, kinh tế tới quyền tự do chính trị, tự do nghiệp đoàn. Những quyền tự do căn bản này đă được ghi trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền, và Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp nhận vào ngày 10/12/1948. Ngày này được tất cả thế giới kỷ niệm như Ngày Quốc Tế Nhân Quyền.

- Dân chủ là một chế độ trong đó mọi quyền tự do căn bản của con người được tôn trọng ; nó khác với những chế độ độc tài đàn áp những quyền tự do căn bả của con người.

Nhiều người cho rằng tự do, dân chủ là sản phẩm của Tây phư&#! 417;ng, không có liên quan ǵ tới Đông phương. Đây là một quan niệm hoàn toàn sai. Một con chim kia nhốt trong lồng, dù là lồng vàng, ăn uống sung sướng, thế mà nó c̣n muốn xổ lồng, đi t́m tự do trong khoảng không gian. Huống chi là con người !

Có người c̣n đưa ra h́nh ảnh là giữa một bát cơm và một quyển sách về nhân quyền, th́ người dân chọn bát cơm ; v́ vậy phải lo về kinh tế trước , rồi mới lo về tự do, dân chủ, nhân quyền sau. Đây chỉ là một lư luận đơn giản hóa tối đa vấn đề và sai sự thật, chẳng khác nào như lư luận của Marx, theo đó kinh tế quyết đ&#! 7883;nh tất. Nhưng thực tế, nhất là ở những nước cộng sản, chính trị quyết định tất. Kinh nghiệm trước mắt cho ta thấy những nước không có tự do, dân chủ, không những đă công có nhân quyền mà c̣n không có cả bát cơm. Ngược lại, những nước có tự do, dân chủ, th́ không những nhân quyền được tôn trọng, mà họ c̣n phồn thịnh. Thí dụ điển h́nh là trường hợp Nam Hàn và Bắc Hàn. Nam Hàn không những có tự do, dân chủ, cựu tổng thống Kim Dae Dzung mà gia điénh, con cái ăn hốí lộ phải dứng ra xin lổi quốc dân, đương kim tổng thống bị nghi gờ là ăn hối l&! #7897;, bị quốc hội bỏ phiếu truất phế, may nhờ đảng ông mới thắng cử và nhờ Ṭa Án Tối Cao bênh vực cho ông, nên ông c̣n tại chức. Nam Hàn không những có dân chủ mà c̣n là cường quốc kinh tế thứ 10 trên thế giới. Sản lượng hàng năm tính theo đầu người là 10 000$ ; trong khi đó th́ dưới chế độ độc tài cộng sản, Bắc Hàn đă và đang chết đói. Tổng sản lượng hàng năm của 82 triệu người Việt Nam dưới chế độ độc tài cộng sản là 34 tỷ $, hàng năm, tính theo đầu người là 430$ ; trong khi đó tổng sản lượng hàng năm của gần 3 triệu người Việt ở tất cả các nước tự do trên thế giới là 90 tỷ$, v́ sản lượng trung b́nh của mổi người hàng năm là trên 30 000$.

Năm 1992, khi khánh thành Hội Nghị Pháp ngữ ở Hà Nội, tổng thống Pháp F. Mittérand đă tuyên bố : « Dân chủ là mảnh đất mầu mỡ cho phát triển kinh tế nẩy mầm. » Điều này, hiện nay các nhà chính trị sáng suốt và các nhà kinh tế đều đồng ư. Ông Amartya Sen, người Ấn Độ, giáo sư đại học Oxford Anh, giải thưởng Nobel kinh tế năm 1998, về công tŕnh nghiên cứu sự liên quan giữa chậm tiến, thiếu phát triển, giữa những nN! 41;n đói và những chế độ độc tài, th́ ông đi đến kết luận : ø « Độc tài là nguyên nhân chính của chậm tiến và các nạn đói đă xẩy ra trên thế giới ». Ông nói : « Kinh nghiệm của nửa thế kỷ qua cho chúng ta thấy những dân tộc Á Phi, Nam Mỹ chậm tiến, ít là nạn nhân của những thiên tai, của đế quốc bên ngoài, mà là nạn nhân của những chính quyền độc đoán, bảo thủ, ngu độn bên trong của chính nước họ. »

V́ vậy cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ chính là cuộc đấu tranh cho nhân quyền, nó không mang màu sắc chủng tộc màu da ; nó c̣n đồng thời là cuộc đấu t! ranh để phát triển kinh tế. Chúng ta có thể nói, như những nhà kinh tế hiện tại, nơi nào không có tự do dân chủ, th́ nơi đó không có phát triển kinh tế. Đó cũng là công tŕnh nghiên cứu vừa mới thực hiện vào đầu năm 2004 này của viện Heritage Foundation với sự cộng tác của tờ báo Wall Street, theo đó th́ những nước nào người dân có nhiều quyền tự do nhất, th́ nước đó phát triển nhất, người dân sống sung túc nhất.

Cuộc tranh đấu cho tự do, dân chủ c̣n là một cuộc chiến đấu cho lương tâm, lương tri của con người. Những người có lương tâm, lương tri,! khi thấy nơi nào con người bị đàn áp, nhân quyền bị vi phạm, th́ phải lên tiếng. Hơn thế nữa, phải nhập cuộc, không thể thờ ơ, trung lập. Trung lập chính là khuyến khích đàn áp bóc lột, vi phạm nhân quyền và nên ư thức rất rơ nhân quyền của tôi tùy thuộc nhân quyền của anh và của mọi người. Ngày nào nhân quyền của anh bị mất, th́ nhân quyền của tôi sớm muộn sẽ mất theo ; ngày nào những tiếng nói lương tâm, lương tri không lên tiếng, th́ ngày đó những bạo chúa, bạo quyền dễ xuất hiện, dễ hoành hành.

II) Cuộc đấu tranh chống cộng sản độc tài

Cộng sN! 43;n là ǵ ?

- Cộng sản là một chế độ độc tài, nhưng khác những chế độ độc tài khác, v́ nó chủ trưong độc tài ṭan diện, dựa trên lư thuyết Mác Lê, chủ trưong độc khuynh, độc đảng, độc tài trong mọi lănh vực, từ văn hóa tư tửong, kinh tế, chính trị, tới xă hội, như điều 4 Hiến Pháp Cộng sản Việt Nam qui định : « Đảng cộng sản Việt Nam, đại diện tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam,đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tửong Hồ chí Minh, là lực lựong lănh đạo Nhà nứoc và xă hội. »

Ở đây chúng ta không thể đi xâu vào việc lạm dụng danh từ, mạo nhận dại diện cho công nhân, nhân dân lao động, cho cả dân tộûc của những ngừoi cộng sản, v́ thực tế những ngừoi lao động bị bóc lột chưa từng có, dân tộc Việt căm thù cộng sản, chúng ta chỉ muốn nói đến tính chất độc tài ṭan diện, độc khuynh, độc đảng của cộng sản Việt Nam nói riêng và cộng sản nói chung.

- Độc khuynh v́ cộng sản chủ trưong chỉ chấp nhận một luồng tư tửong, đó là tư tửong Mác Lê. C̣n tư tửong HN! 91; chí Minh th́ không có, như chính ông nhiều lần nói rằng ông chẳng có tư tửong ǵ cả. Độc khuynh chống lại đa khuynh, v́ đa khuynh chủ trưong chấp nhận mọi tư tửong ở trên thế giới.

- Độc đảng chủ trưong chỉ có một đảng, khác với đa đảng chủ trưong chấp nhận nhiều đảng.

Đó là trên lư thuyết, trên thực tế th́ ṭan dân Việt Nam và cả thế giới đều phẩn uất và phản đối chế độ độc tài cộng sản Việt Nam. Những vụ đàn áp tôn giáo, đàn áp dân tộc Tây Nguyên mới đây, bắt bỏ tù Lê chí Quang, Nguyễn vũ B́nh, bác sĩ Nguyễn đa! n Quế, giáo sư Nguyễn đ́nh Huy và nhiều nhà đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền khác ở Việt Nam hiện nay chứng tỏ điều đó.

Hạ Nghị Viện Hoa Kỳ và Quốc Hội Âu châu gần đây bỏ phiếu chấp nhận những đạo luật to ácáo cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền, công nhận tổ chức Phật Giáo Thống Nhất lănh đạo bởi ḥa thựong Huyền Quang và Quảng Độ là tổ chức Phật Giáo duy nhất ở Việt Nam. Trừong hợp đáng lưu ư là Quốc Hội Âu châu, với 426 nghị sĩ, đại diện cho 15 quốc gia, cho 76 đảng, trong đó có nhiều đảng cộng sản, ngày x&#! 432;a đă giúp đỡ, ủng hộ cộng sản Việt Nam ; 426 nghị sĩ này đều bỏ phiếu thuận, tố cáo cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền, không có một phiếu trắng, không có một phiếu chống. Điều này chứng tỏ không c̣n một ai, ngay cả những đảng cộng sản ngày xưa là đồng minh đă giúp đỡ cộng saÛn Việt Nam, không c̣n một quốc gia nào ngày nay ủng hộ cộng sản Việt Nam.

III) Sự tưong đồng và dị biệt giữa cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ và cuộc đấu tranh chống cộng sản

Hai cuộc đấu tranh trên giống nhau ở chỗ là đều chống độc tài. Nhưng cuộc đấu tranh chống cộng sản ng̣ai việc chống độc tài, c̣n mang ư nghĩa quốc gia, dân tộc, chống việc cộng sản Việt Nam dâng đất và nhựong biển cho Trung cộng ; chống cộng sản Việt Nam phá hủy tất cả những giá trị tốt đẹp của tiền nhân, chống việc cộng sản Việt Nam đưa đất nứoc chúng ta tụt hậu về kinh tế, băng họai về đạo đức và tinh thần. Cuộc đấu tranh của dân Việt chống cộng sản hiện nay, ng̣ai việc chống độc tài, c̣ là cuộc đấu tranh cho quốc gia, dân tộc, cho lưong tâm và lưong tri củ! ;a con ngừoi. Có thể nói, đó là cuộc đấu tranh của những ngừoi văn minh chống lại những ngừoi man rợ, v́ theo nhà văn Dưong thu Hưong, th́ cộng sản là những ngừoi man rợ, theo cựu đại tá cộng sản Phạm quế Dưong, th́ « cộng sản vừa bất tài, bất lực, vừa bất lưong ».

Nhưng cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ cũng không thể chỉ nhằm vào độc tài cộng sản, mà phải chống tất cả mọi h́nh thức độc tài, như độc tài phát xít Hitler, độc tài quân phiệt Suharto mới đây ở Nam Dưong như sinh viên nứoc này đă làm, độc tài quân phiệt Miến Địện như dân tộc Miến Điện và bà Au Aung Shusi đang làm.

Thế giới hiện nay đang ở trong kỷ nguyên của văn minh tri thức và điện tóan, nó đ̣i hỏi mô h́nh tổ chức nhân xă dân chủ, tự do và kinh tế thị trừong. Những chế độ độc đóan, độc tài từ tả qua hữu sẽ bị bánh xe tiến hóa của văn minh nhân lọai nghiền nát. Nói như vậy không có nghĩa là những ngừoi đấu tranh cho tự do, dân chủ khoanh tay ngồi chờ. Hăy tận lực đấu tranh, để giải thóat những dân tộc bị trị khỏi những chế độ độc tài càng sớm càng tốt.

Paris ngày O2than! g 06 năm 2004

Trực Ngôn Chu chi Nam

-- Khao Khat Cho VN Duoc TU DO (Khao_Khat_Cho_VN_Duoc_TU_DO@hn.vnn.vn), June 30, 2004.


Response to Tổng hợp toĂ n bộ tĂ i liệu liĂªn quan đến Quốc nạn đảng CSVN bĂ¡n nước cho Trung Cộng để cầu vinh

HĂM CHÍN NĂM (1975-2004), NH̀N LẠI THÀNH TÍCH BÁN NƯỚC CỦA VIỆT CỘNG

Trich tu mang www.conong.com - HỒ ĐINH

Trong ḍng sông Việt sử cận đại, ta thấy có rất nhiều mốc thời gian quan trọng, phần lớn đều có liên quan tới Đảng Việt Cộng. Đầu tiên là năm 1930 ngày đảng được mẹ Liên xô sinh ra và trôi giạt tới xứ Việt. Năm 1945, đảng lượm được chính quyền bên vệ đường, khi quân phiệt Nhật bị ăn bom nguyên tử, phải tháo chạy khỏi Đông Dương. Năm 1954, nhờ các đồng chí Nga-Tàu và khối thứ ba trung lập nhưng bợ đít cọng sản, nên Hồ cướp được nửa mảnh cơ đồ Hồng Lạc. Ngày 30-4-1975, Việt Cộng đại công cáo thành, làm chủ cả nước, cho tới hôm nay. Tuy nhiên, nếu gọi là biến cố lịch sử bao đời, th́ phải nhắc tới hiểm họa xâm lăngTrung Cộng, luôn muốn chiếm cho được Việt Nam, ṛng ră liên tục suốt mấy ngàn năm máu lệ. Tóm lại những thành tích của Hồ và Đảng Việt Cộng, khởi sự từ năm 1958, công nhận Hoàng Sa-Trường Sa là lănh thổ của Tàu nhưng chết người là sự Phạm văn Đồng, thay Hồ Chí Minh, ngày 4-9-1958, kư công nhận bản đồ và lời tuyên bố lănh hải của Trung Cộng là 12 hải lư. Như vậy, biển VN tại Quảng Nam, Phan Thiết, kể cả các nước Phi, Nam Dương, Mă Lia trong Đông Hải, từ bờ ra hải phận chỉ có 50 hải lư. Ngày 9-1-1974, tại Bắc Kinh, Kissinger mượn công hàm và bản đồ của Phạm văn Đồng kư năm 1958, đă xác nhận VNCH cướp chiếm đất đai của Tàu. Ngày 11-1-1974 Mao Trạch Đông tuyên bố, Hoàng Sa ốTrường Sa là Tây Sa và Nam Sa, sau đó xua quân chiếm hai đảo trên vào ngày 19-1-1974. Hỡi ôi, chỉ v́ manh tâm cướp chiếm miền Nam, Hồ Chí Minh và VC đă bán đứng hai quần đảo thiêng liêng của đất nước , cho kẻ thù truyền kiếp, tận tuyệt.

Rồi tháng 12/1999 và kế tiếp là tháng 12/2000, hết Đổ Mười, tới Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Nguyễn Mạnh Cầm và nhiều chóp bu khác trong đảng, đă bí mật sang Tàu, kư kết bán-nhượng cũng như dâng hiến cho giâc , nhiều đất đai dọc theo biên giới Việt Trung, trong đó có thác Bản Dốc, hang Pắc Pó và nhất là ải Nam Quan, một biểu tượng , được xem như hồn thiêng sông núi của dân tộc. Kế đó, VC lại tiếp tục bán nhượng cho Tàu, nhiều phần lănh hải quan trọng trong Vịnh Bắc Phần, là nơi có tiềm năng dầu khí và ngư nghiệp rất lớn, của nước ta.

Không kể thời Bắc thuộc huyễn hoặc, bao đời Việt Nam trong ḍng lịch sử, khi mất nước cũng như hồi độc lập, ngoại trừ trường hợp bán nước duy nhất của Mạc Đăng Dung, cho nhà Minh vào năm 1540, không có một vua chúa nào, dám công khai đem một tấc đất biển, dâng bán cho giặc như Hồ Chí Minh và đảng VC dám làm..suốt thời kỳ 1930 cho tới ngày nay. Vậy mà lúc nào, cũng nói Trần Thiểm B́nh, Hồ Hán Thương, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống, Nguyễn Ánh..cơng rắn cắn gà nhà. Nhưng nay, sau hăm chin năm nh́n lại, chỉ riêng thành tích bán nước cho giặc, th́ Hồ Chí Minh và đảng VC, c̣n tệ mạt gấp ngàn lần những nhân vật bị đời bêu rếu. Sau ngày 30-4-1975, thiên hạ khi nhắc tới cọng sản, đả quả quyết là chúng sẽ ngh́n năm vĩnh tuyệt nhưng tới năm 2000, cả khối từ Liên Xô, Đông Đức, Đông Âu..lăn đùng ngáp chết, chỉ c̣n bốn đảng Tàu, Việt, Bắc Hàn và Cu Ba phải quăng Lê-Mác-Mao-Hồ vào đáy huyệt, trải thảm đỏ, quỳ gối mở cửa, rước Mỹ và tư bản da trắng, da vàng, đem đô la vào cứu đảng. Tóm lại, ai nói hay nghĩ thế nào cũng được nhưng chắc chắc với một chánh quyền tham tàn, bạo ngược, hại dân và nhất là công khai bán nước, nên dù VC có được Trung Cộng hay Hoa Kỳ chống lưng, bảo vệ..th́ sự sụp đổ của chế độ thối nát trên, nay đang sơn son thiếp vàng để bịp người, cũng chỉ là một lâu đài trên cát, chờ giờ đền tội, trước quốc dân và Ṭa Án lịch sử muôn đời.

1-HẢI CHIẾN HOÀNG SA NĂM 1974 :

Tháng 7-1954, ngay khi chữ kư trên văn bản ngưng bắn tại Genève, chưa ráo mực, th́ Hồ Chí Minh đă nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam, để tron gói vơ vét và toàn quyền trên ngai vàng máu lệ. Do ư đồ trên, Hồ đă gài lại một số lớn cán binh bộ đội nằm vùng khắp lănh thổ VNCH, khi có lệnh tập kết. Để chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con đường chiến lược Trường Sơn trên bộ, xuyên qua lănh thổ Lào và Kampuchia . Về mặt biển, Hồ thành lập đường 559B và dĩ nhiên, muốn an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt hai tiền đồn của QLVNCH trấn đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, nằm trong Đông Hải.

Theo bản tin của UPI-AFB ngày 23-9-1958, được các báo của Trung Cộng-Việt Cộng đăng tải. Những tài liệu này, hiện vẫn được lưu trữ tại các thư viện quốc tế như Luân Đôn, Paris..kể cả Hà Nội. Theo đó, ta biết ngày 14-9-1958, Phạm Văn Đồng qua lệnh truyền của Hồ Chí Minh, đả cam kết với Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng, bằng văn kiện xác quyết như sau :’ Chính phủ VNDCCH, tôn trọng quyết định, lănh hải 12 hải lư cũng như hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, là Tây Sa-Nam Sa, của Trung Cộng’. Ngày 22-9-1958, Đại sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn Khang, dâng văn kiện xác nhận điều trên, do Phạm Văn Đồng kư, lên Thiên Triều. Tháng 5-1976, trên tờ Sài G̣n Giải Phóng của VC Ngô Công Đức, Lư Quư Chung..vẫn c̣n đăng lời xác nhận của đảng VC, là Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Cộng. Khôi hài hơn, VC nói, v́ ta và Tàu sông liền sông, núi dín núi, nên Hoàng Sa-Trường Sa, của ai cũng thế thôi. Khi nào VC muốn lấy lại đảo, Trung Cộng sẵn sàng giao ‘. Luận điệu trên, rơ ràng VC đă xác nhận VN là thuộc địa của Tàu Cộng. Ngày 14-3-1988, VC và Trung Cộng đánh nhau tại Trường Sa. Sau đó, trên tờ Nhân Dân, số ra ngày 26-4-1988, VC vẫn xác nhận , sự Hồ Chí Minh bán hai đảo cho Tàu năm 1958 là đúng, v́ có vậy, Trung Cộng mới viện trợ súng đạn, gạo tiền, để VC đánh chiếm VNCH.

Về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, theo chính sử cũng như những tài liệu của ngoại quốc như Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn, Hoàng Việt địa dư chí thời vua Minh Mạng, Quảng Ngăi tỉnh trí của cac Tuần Vũ Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Đ́nh Chi, Quảng Ngăi nhất thống chí của Lê Ngại..C̣n tác phẩm ngại quốc, có kư sự của các giáo sĩ Thiên Chúa trên tàu Amphitrite, viết năm 1701, của Đô Đốc Pháp tên là D’Estaing viết năm 1768 rằng :’ Sự giao thông giữa đất liền và các đảo Paracel (Hoàng Sa) rất nguy hiểm, khó khăn nhưng Người Đại Việt chỉ dùng các thuyền nhỏ, lại có thể đi lại dễ dàng.’ Nhưng quan trọng nhất, là tác phẩm viết về Hoàng Sa của Đổ Bá tự Công Đạo, viết năm Chính Ḥa thứ 7 (1686), trong đó có bản đồ Băi Cát Vàng :’ Đảo phỏng chừng 600 dặm chiều dài và 20 dặm bề ngang. Vị trí nằm giữa cửa Đại Chiêm và Quyết Mông. Hằng năm vào cuối mùa đông, các chúa Nguyễn Đàng Trong, cho Hải Đội Hoàng Sa gồm 18 chiến thuyền đến nơi tuần trú.’ Năm 1776, trong tác phẩm ‘ Phủ Biên tạp lục’, Lê Quư Đôn đă viết một cách rơ ràng :’ Trước đây, các Chúa Nguyễn đă đặt Đội Hoàng Sa 70 suất, tuyển lính tại Xă An Vĩnh, cắt phiên mỗi năm vào tháng 2 ra đi, mang theo lương thực 6 tháng. Dùng loại thuyền câu nhỏ, gồm 5 chiếc, mất 3 ngày 3 đêm, từ đất liền tới đảo.’

Theo sử liệu cũng như nhân chứng, th́ buổi trước, Đội Hoàng Sa tập trung tại Vươn Đồn, để luyện tập cũng như sửa chữa thuyền bè và nhận lệnh thượng cấp. Trước khi xuất quân, Đội đến Miếu Hoàng Sa tế lễ. Đây là một ngôi nhà gồm 3 gian, làm bằng gỗ tốt, lợp tranh dầy, mặt Miếu quay ra cửa Sa Kỳ, trước có 2 cây gạo cổ thụ. Trong Miếu thờ Một Bộ Xương Cá Ông rất lớn. Theo người địa phương, hơn 300 năm về trước, Ông lụy tại Hoàng Sa, nhưng đă được Hải Đội d́u về đất liền. Sau ba năm chôn cất, những người lính, thỉnh cốt vào thờ trong Miếu . Từ đó về sau, hằng năm vào tháng 6, khi những người lính ,măn phiên từ Hoàng Sa trở về, dân làng tổ chức cúng lễ tại Miếu, gọi là ‘ Đánh Trống Tựu Xôi’.

Từ thị xă Quảng Ngăi, qua cầu Trà Khúc, bỏ quốc lộ 1, rẻ vào quốc lộ 24B, ngang qua Làng Sơn Mỹ dưới chân Núi Thiên Ấn, chừng 5 km, th́ rẽ vào một con đường đất đỏ, chạy giữa con sông kinh và rừng dương sát biển. Đó là xă Tịnh Kỳ, thuộc Huyện Sơn Tịnh, nơi khai sinh Hải Đội Hoàng Sa, khoảng mấy trăm về trước, thời các Chúa Nguyễn, Nam Hà, thuộc Đại Việt. Theo Quảng Ngăi địa dư chí, vùng đất này, trước năm 1898 thuộc trấn B́nh Sơn. Năm Thành Thái thứ 10, tách ra thành 2 Huyện B́nh Sơn và Sơn Tịnh.. Sau tháng 8-1945, khu Tịnh Kỳ được hoàn thành bởi ba xă An Kỳ-An Vịnh và Kỳ Xuyên. Xưa vùng này là một cù lao, nằm cách đất liền, phải dùng ghe vào các bến Mỹ Khê, Chợ Mới, Sa Kỳ hay xa hơn là Thị Xă Quảng ngăi, các Thị Trấn Ba Gia, Đồng Ké, Sông Vê, Ba Tơ. Từ năm 1993, qua việc xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất nên hải cảng Sa Kỳ đă được mở rộng, đồng thời với con đường , chạy từ cầu Khê Kỳ, qua Cửa Lở tới Kỳ Xuyên. Có lẽ do địa thế sông nước bao quanh, nên từ mấy trăm năm về trước, Các Vị Chúa Nguyễn đă chọn An Vĩnh làm căn cứ , đặt Hải Đội Hoàng Sa, với nhiệm vụ bảo vệ hải đảo, cũng như khai thác các tài nguyên ngoài Đông Hải. Đ́nh làng An Vĩnh trước đây rất đồ xộ, là nơi Xuân thu nhị kỳ cúng tế những người lính Hoàng Sa, nay đả đổ nát, chỉ c̣n lại Chiếc Cổng Tam Quan. Điều này đủ để minh chứng với thế giới, việc Quần Đảo Hoàng Sa-Trường Sa là lănh thổ lâu đời của Đại Việt. Người Tàu chỉ ỷ vào sức mạnh và tờ văn khế bán nước của Phạm Văn Đồng năm 1958, để cướp chiếm nước ta, như sau này chúng đă làm tại biên giới Việt Trung và Lănh Hải trong Vịnh Bắc Việt.

Ở đây, hiện c̣n nhà thờ Cai Đôi Phạm Quang Ánh, là người được Vua Gia Long cử ra Hoàng Sa năm 1815, đo đạc, khảo sát lộ tŕnh và tổ chức Hải Đội. Ông được nhà Nguyễn phong chức Thượng Đẳng Thần khi mất. Tóm lại, từ thời các Chúa Nguyễn (1558-1783), nhà Tây Sơn (1788-1802), Nhà Nguyễn (1802-1945), đă có Hải Đội Hoàng Sa. Đặc biệt, năm 1836, Minh Mạng thứ 17, quần đảo Paracel hay băi cát vàng, được Công Bộ, đặt tên là ‘ Bản Quốc Hải Cương Hoàng Sa Xứ, Tối thị Hiểm Yếu’.

Từ năm 1954, Hoàng Sa là một đơn vị hành chánh thuộc tỉnh Quảng Nam-VNCH, được Tiểu Đoàn 1/TQLC bảo vệ. Từ năm 1959 tới 1974, Đảo do các Đơn Vị DPQ/Quảng Nam trú đóng. Giống như Quần Đảo Trường Sa ở phía Nam, cũng là một đơn vị hành chánh , của tỉnh Phước Tuy và do DPQ của tỉnh này bảo vệ, cho tới ngày 30-4-1975.

Ngày 4-9-1958, Trung Cộng vẽ bản đồ mới và tuyên bố lănh hải của ḿnh là 12 hải lư. Bản tuyên cáo này chỉ có Bắc Hàn công nhận đầu tiên. Tại Bắc Việt, Hồ Chí Minh họp đảng để nhất trí và ban lệnh cho Phạm Văn Đồng , kư nghị định công nhận ngày 14-9-1958. Ngày 9-1-1974, Kissinger tới Bắc Kinh mật đàm với Mao Trạch Đông, được cho coi văn kiện mà Phạm Văn Đồng đă kư xác nhận , hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH, chính là hai đảo Tây Sa-Nam Sa của Tàu. Theo văn kiện và tuyên cáo lănh hải 12 hải lư, th́ chính VNCH đă chiếm đất của Trung Cộng, từ năm 1958, theo VC làm chứng và xác nhận. Được cơ hội vàng ṛng, tên cáo già Kissinger tương kế tựu kế, nhân danh Nixon, bật đèn xanh, cho Mao đánh VNCH, đề thu hồi lănh thổ. Thế là ngày 11-1-1974, Trung Cộng tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa-Trường Sa. Ngày 19-1-1974, bất thần Trung Công tấn công Hoàng Sa , gây nên trận hải chiến, tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu. Trung Cộng dù chiếm được đảo nhưng thiệt hại gấp 3 lần VNCH. Theo sử liệu, trong trận hải chiến này, lực lượng hải quân của Trung Cộng rất hùng hậu v́ đă chuẩn bị trước. Thành phần tham chiến gồm : Hộ tống hạm 271 Kronstadt, Đại Tá Vương Kỳ Uy là hạm trưởng, tử thương. Hộ tống hạm 274 Kronstadt, Hạm trưởng là Đại Tá Quan Đức. Đây cũng là Soái hạm, chỉ huy trận chiến, gồm Tư lệnh là Đô Đốc Phương Quang Kính, cũng là Phó tư lệnh của Hạm Đội Nam Hải. Theo sử liệu, toàn bộ chỉ huy của Trung Cộng trên Soái Hạm này, gồm 2 Đề Đốc, 4 Đại Tá, 6 Trung Tá, 2 Thiếu tá và 7 Sĩ Quan Cấp uư, tử thương. Trục lôi hạm 389, hạm trưởng là Trung Tá Triệu Quát tử thương. Trục lôi hạm 396, Hạm trưởng là Đại Tá Diệp Mạnh Hải, tử thương. Phi Tiễn Đỉnh 133 Komar, có hỏa tiễn địa điạ Styx, Hạm trưởng là Thiếu tá Tôn Quân Anh. Phi tiễn đỉnh 137 Komar, có hỏa tiễn địa địa Styx, Hạm trưởng là Thiếu Tá Mạc Quang Đại. Phi tiễn đỉnh 139 Komar có hỏa tiên, Hạm trưởng là Thiếu tá Phạm Quy. Phi tiễn đỉnh 145 Komar có hỏa tiễn, Hạm trưởng là Thiếu Ta Ngụy Như và 6 Hải Vận Hạm chở quân chiến đấu. Ngoài ra c̣n một lực lượng trừ bị gồm 2 Tuần Dương Hạm, 4 Pháo Hạm, 4 Khu trục Hạm , trang bị hỏa tiễn Kiangjiang, 2 Phi đội Mig 19 và 2 phi đội Mig 21, do tư lệnh Hạm Đội Nam Hải, tổng chỉ huy.

Bên VNCH, lực lượng tham chiến gồm Khu Trục Hạm HQ4 Trần Khánh Dư, Hạm Trưởng Trung Tá HQ.Vũ Hữu San. Tuần Dương Hạm HQ5 Trần B́nh Trọng , Hạm trưởng Trung Ta HQ Phạm Trọng Quỳnh. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, Hạm Trưởng Thiếu Tá HQ.Ngụy Văn Thà. Trong khi giao chiến, HQ10 bị trúng đạn, toàn thể thủy thủ xuống xuồng nhỏ, th́ Hạm Trưởng ở lại tuấn quốc với chiến hạm. Tuần Dương Hạm HQ16, Hạm Trưởng là HQ.Trung Tá Lê Văn Thư. Về lực lượng trừ bị,, có Tuần Dương Hạm HQ6 Trần Quốc Toản, Hộ Tống Hạm HQ11 Chí Linh và Phi Đoàn F5-A37, nhưng v́ ở cách xa chiến trường, nên khi chưa tới nơi, th́ chiến cuộc đă tàn. Riêng Sư Đoàn 1 Không Quân, không can thiệp.. Kết quả, phía VNCH, các chiến hạm 4,5 và 16 bị hư hại nặng nhưng chạy được về Đà Nẳng sửa chữa và tiếp tục hoạt động sau đó. Chỉ có Chiến Hạm HQ10 bị ch́m, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, bị thương nhưng quyết ở lại chết với tàu. Về phía Trung Cộng, Tư Lệnh Mặt Trận, Bộ Tham Mưu và 4 Hạm Trưởng tử thương. Hộ Tống Hạm 274 bị ch́m, Hộ Tống Hạm 271 và 2 Trục lôi hạm 389-396 bị hư nặng và phá hủy cùng với 4 ngư thuyền bị bắn ch́m. Tóm lại, qua sử liệu, ta biết các Chiến hạm mà Hoa Kỳ đă viện trợ cho Hải Quân VNCH, hầu hết được hạ thủy năm 1940, loại phế thải được tân trạng. Bốn Chiến hạm tham chiến năm 1974, được coi là tối tân nhất , v́ HQ4 hạ thủy năm 1943, HQ5 hạ thủy năm 1944, HQ10 hạ thủy năm 1942 và HQ16 hạ thủy năm 1942. Riêng các vũ khí trên tàu, các loại súng liên thanh đều được gở bỏ , khi cho VNCH. Nhưng dù quân lực Miền Nam ít, chiến hạm vừa cũ kỹ lại nhỏ, vũ khí trang bị, chỉ có đại bác nhưng v́ Các Sĩ Quan Hải Quân VNCH đều được huấn luyện như Âu Mỹ, rất thiện chiến và tài giỏi. Cho nên đă tác xạ rất chính xác, làm nhiều Tàu giặc cũng như Hạm trưởng tử thương. Tệ nhất là người Mỹ, lúc đó vẫn c̣n là đồng minh của QLVNCH, vẫn đang có hiệp ước hỗ tương chiến đấu và bảo vệ cho nhau. Vậy mà khi cuộc chiến xảy ra, Hạm Đội 7 Hoa Kỳ đang tuần hành gần đó, chẳng những đă không lên tiếng, không can thiệp mà ngay thủy thủ VNCH bị ch́m, cũng không thèm cứu vét, theo đúng luật hàng hải quốc tế.

-- Khao Khat Cho VN Duoc TU DO (Khao_Khat_Cho_VN_Duoc_TU_DO@hn.vnn.vn), June 30, 2004.



Response to Tổng hợp toĂ n bộ tĂ i liệu liĂªn quan đến Quốc nạn đảng CSVN bĂ¡n nước cho Trung Cộng để cầu vinh

Ngày 14-3-1988, Trung Cộng lại nổ súng vào Hải quân Việt Cộng, tại quần đảo Trường Sa. Trong cuộc hải chiến ngắn ngủi này, v́ VC chỉ phản ứng có lệ, nên tài liệu cho biết phía Trung Cộng , không có ai bị tử thương cũng như tàu ch́m. Ngược lại, bên VC có nhiều tàu chiến bị ch́m, gồm : Chiến Hạm Thượng Hải của Tàu viện trợ , 1 Tuần Dương Hạm củ của VNCH để lại, 1 Hải Vận Hạm của Nga Sô viện trợ và trên 300 lính Hải quân bị thương vong.

2-VC BÁN ĐẤT, BÁN BIỂN CHO GIẶC TÀU :

Từ sau ngày 30-4-1975 chiếm được cả nước VN, đảng VC lúc nào cũng rêu rao khoắc lác về độc lập tự do, vẹn toàn lănh thổ. Thế nhưng mọi sự đă lộ nguyên h́nh, khi thành tích bán nước cho Tàu, phản bội quê hương bị toàn dân trong và ngoài nước phanh phui nguyền rủa. Nhờ đó, mà những cái loa Việt Gian bợ đít VC , từ bấy lâu nay tại hải ngoại, mới chịu khép miệng, v́ không c̣n biết đâu mà ṃ.

Theo đó, ta biết trong năm 1999 và 2000, bọn chóp bu đảng gồm Đổ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm và toàn lũ trong Chính trị Bộ, đă lén lút , kư kết 2 Hiệp Ước bất b́nh thường, vô lư, phản bội dân tộc, trong sự Bán Đất Biên giới và Bán Vịnh Bắc Phần, cho giặc Tàu. Cũng may, thành tích trên sớm bị bật mí, c̣n không hậu quả biết đâu mà lường, v́ VC chuyện ǵ cũng dám làm, miễn là bảo vệ được chiếc ngai vàng đẫm máu, để c̣n dịp vơ vét tài sản của đất nước và đồng bào.

Từ năm 1884, Pháp coi như chính thức đô hộ VN. Từ đó thực dân độc quyền kư kết , các hiệp ước song phương và những công ước quốc tế, về luật biển, hải đảo cũng như biên giới giữa các nước. Năm 1885, Pháp kư với Măn Thanh hiệp ước Thiên Tân, hủy bỏ sự liên hệ giữa Nhà Nguyễn VN và Trung Hoa, hủy bỏ ấn phong vương, phân định lại đường ranh giới bằng cọc cắm và bản đồ. Năm 1887, Pháp và Trung Hoa lại kư Hiệp Ước Brévié, phân ranh vùng V́nh Bắc Phần, từ Trà Cổ (Móng Cáy), dọc theo kinh tuyến Đông 108. Theo đó, phía tây đảo Bạch Long Vĩ là lănh hải của VN, phía đông là của Trung Hoa. Về sự tranh chấp hai quần đảo Hoàng SaTrường Sa, cũng được quốc tế giải quyết năm 1882, theo công ước luật biển. Tháng 11-1993, công ước trên được LHQ phê chuẩn và thi hành vào năm 1994, với 170 quốc gia công nhận, trong đó có Trung Cộng và VC. Tóm lại đảng VC đă dối trá quốc dân VN, lén lút họp kín với Giặc Tàu trong 20 phiên họp kín. Rồi cũng tự động bí mật kư kết, c̣n quốc hội VC th́ cũng lén lút thông qua. Tóm lại, tất cả những kư kết điều hoàn toàn sai trái về pháp lư quốc tế và đạo lư dân tộc, đi ngược lại truyền thống ḥa b́nh, tự chủ, không lấy thịt đè người của bản tuyên ngôn nhân quyền. Tất cả đều là những âm mưu xâm lăng, hay nói đúng hơn chính Hồ Chí Minh và đảng VC đă rước voi Tàu về dầy mă Việt, ngay từ khi bắt đầu nhận viện trợ của Trung Cộng năm 1950 cho tới cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1960- 1975) chấm dứt. Trung Cộng lợi dụng quân viện và nhất là trong cuộc chiến biên giới năm 1979 giữa Việt-Trung, đă xua hàng triệu dân Tàu gốc Tghiểu Số tại các tỉnh biên giới, lấn đất dành dân, sâu trong nội địa VN. Theo báo chí ngoại quốc, VC đă bán cho Trung Cộng tại biên giới Việt Hoa, hơn 15.600 km2 và 20.000 km2 lănh hải trong vịnh Bắc Phần.. Như vậy tại Miền Bắc, ngày nay VN đă mất hẳn những địa danh hồn thiêng sông núi như Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, và Đồng Đăng với Phố Kỳ Lừa.

ẢI NAM QUAN : Ở ngay biên giới Việt-Trung, đường sang Long Châu, tỉnh Quảng Tây, cách Hà Nội 176 km.. Từ thị xă Lạng Sơn, lên Nam Quan xa 17 km, qua chợ Kỳ Lừa, phía tây là Động Tam Thanh, phía trước là núi Vọng Phu, có nàng Tô Thị bồng con đợi chồng. Đồng Đăng cách biên giới 5 km, có Ải Nam Quan hay Cửa Hữu Nghị.

Theo Nguyễn văn Siêu trong Dư Địa Chí, th́ Ải Nam Quan, từ thời Hậu Lê trở về trước, được gọi là Cửa Pha Lũy hay Pha Dữ, nằm về phía bắc Châu Văn Uyển, thuộc Trấn Lạng Sơn. Theo Cương Mục, th́ Pha Lũy ch1nh là Ải Nam Quan, ở Xả Đồng Đăng, huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn. Từ thời nhà Lê Trung Hưng, người Tàu gọi cửa Pha Lũy là Trấn Nam Quan, c̣n VN gọi là Ải Nam Quan. Hai bên cửa Ải là núi cao ngất trời, liên tiếp có rất nhiều ải nhỏ, nằm rải rác khắp các khu vực trọng yếu, trên đường quan lộ dẫn về Thăng Long Thành. Cửa Ải Nam Quan luôn luôn khóa kín, chỉ mở khi có thông sứ chính thức giữa hai nước. Mọi sự hầu như đều dùng cửa Ải Du thôn, ở xă Bảo Lâm, Châu Cao Lộc, Tỉnh Lạng Sơn. Ải này cách Nam Quan, chừng 2 canh giờ đường núi. Thời Pháp thuộc, Nam Quan được gọi là Porte de Chine. Sau năm 1954, Mao Trạch Đông đổi thành Mục Nam Quan. Riêng VC gọi là Cửa Hữu Nghị. Trong ḍng sông lịch sử, suốt mấy ngàn năm qua, Nam Quan là nơi chứng kiến bao cuộc tang dâu máu lệ. Ngày xưa, tại nơi này, Mạc Đăng Dung qú gối dâng đất cho nhà Minh để được làm vua, y chang như bây giờ VC lén lút bán biên giới và lănh hải, hải đảo cho giặc Tàu để vinh thân, ph́ gia, bảo vệ đảng cọng sản. Đây cũng là nơi ghi lại những chiến công hiển hách của Đại Việt, trong công cuộc giết giặc Tàu giữ nước, ngay từ năm 40 đời Trưng Nữ Vương, rồi Lê Đại Hành, Lư Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi.. cho tới thời Đại Đế Quang Trung Nguyễn Hue, vào năm 1789, đánh đuổi quân Thanh tại trận Đống Đa. Tôn Sĩ Nghị, cũng chạy qua đây để trốn về Tàu. ̉

Theo kư họa của Eug.Burnand năm 1887, cho thấy cửa Nam Quan thời ấy, chỉ c̣n là một tường cao, giữa có cửa thông qua, hai bên là núi non hiểm trở. Đầu thế kỷ XX, theo h́nh vẽ in trong bưu thiếp của Collection de Union Commerciale Indochinoise, thấy Cửa Nam Quan nằm dưới chân núi khá cao, phía sau Ải có xây thêm một toà nhà lầu, đứng trên lưng chừng núi. Nhưng rồi chiến tranh triền miên, nhưng công tŕnh này cũng không c̣n. Sau năm 1949, Mao và Trung Cộng làm chủ nước Tàu, nên đă xây lại Ải Nam Quan, là một toà nhà lầu ba tầng. Cuối cùng là h́nh chụp của các nhân chứng tại chỗ sau năm 2001, cho thấy cái Ải nhỏ của VN năm 1996, nằm sát ngay trước Cửa Nam Quan, nay bị bứng sâu vào nội địa, nên không thấy tăm dạng Ải Nam Quan như mấy ngàn năm lịch sử.

Việc Cọng sản Hà Nội tự chuyên lén lút bán nước cho Trung Cộng, nay đă là một biển hận, trời hờn, làm cho người Việt, bất cứ là ai, khi biết được cũng xấu hổ và căm thù bọn phản bội dân tộc. VN mất Ải Nam Quan, coi như đă tự ḿnh hủy diệt một niềm tin quyết thắng, v́ Nam Quan là hồn thiêng của sông núi, mà bất cứ một người VN nào khi chào đời, cũng đều, thuộc ḷng. Giặc Tàu bao đời nuôi mộng phanh thây chiếm nước người Việt nhưng bao đời chúng đều bị người Việt, chận đứng trước cửa Nam Quan, v́ đây chính mồ chôn bao đời quân xâm lăng phương Bắc. Từ năm 1930 tới nay, Hồ Chí Minh và đảng VC, chỉ v́ lợi lộc cá nhân và đảng hệ, mà cơng voi về đầy xéo đất nước, làm cho voi quen đường, chẳng những lấn đất dành biển, mà c̣n ngổ ngáo sử dụng một ḿnh một chợ thượng nguồn các con sông thiêng của VN, từ sông Hồng, sông Đà, Lô, Thái B́nh ở Bắc Phần cho tới sông Cửu Long tại miền Nam, khiến cho nước ta, từ hăm chin năm nay, chịu không biết bao nhiêu thiên tai bảo lụt, thiệt hại mùa màng tật bệnh, v́ những hiện họa của Tàu đổ xuống các ḍng sông, theo nước xuống tận đồng bằng sông Cửu Long và ra biển. Rồi đây, VN sẽ lănh tất cả những chất độc như Cyanide, arsenic, acid..từ các quặng mỏ trong tỉnh Vân Nam, đổ xuống ḍng sông Mekong ra biển. Chưa hết, Trung Cộng chẳng những đă xây các đập thủy điện khổng lồ tại Măn Loan, Cảnh Hồg, Đại Chiến Sơn..và Hồ chứa nước Lạn Thương Giang, trên sông Mêkong. Mà c̣n xúi các nước Thái, Miến, Lào cũng góp phần làm hủy hoại tận tuyệt con sông thiêng, khiến cho một ngày đó, phù sa sẽ không c̣n bồi đắp Mũi Cà Mâu và hủy diệt toàn bộ thủy tộc trên biển đông, v́ hệ sinh thái cạn kiệt.

Dân chúng VN bao đời sống nhờ biển cá, VC ngày nay đem biển bán cho giặc Tàu, khiến cho nguồn lợi thủy sản bị hao hụt trầm trọng, tài nguyên dưới đáy biển bao đời, nay thuộc về ngoại bang. Rồi nay mai, Trung Cộng sẽ khai thac dầu hỏa trong vịnh Bắc Phần, nạn tràn dầu, ô nhiễm chất phế thải sẽ khiến cho đồng bào duyên hải gánh chịu. Đó là chưa nói tới, ngư dân sẽ bị Tàu cấm hành nghề , v́ biển củ đả bị đảng bán cho giặc, vịnh Bắc Việt trở thành Vịnh Hải Nam của người Tàu.

Năm 1473, khi Thái bảo kiến dương bá Lê Duy Cảnh, được giao nhiệm vụ trấn giữ Ải Nam Quan, Vua Lê Thánh Tông đă ân cần nhắn gửi người ra đi :’ Một thước núi, một tấc sông của ta, không được bỏ. Nếu ngươi làm mất, tội đó phải tru di’. Lư Thường Kiệt khi đại chiến với quân Tống, dă viết ‘ Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư’ xác quyết đất đai của người Việt muôn đời là của Nước Việt, không có ai được quyền xâm lấn hay bán nhượng. Trái lại VC th́ lúc nào cũng to miệng nhục mạ nhà Nguyễn, vua Gia Long là cơng rắn cắn gà nhà, quy tội cho người Việt không cọng sản là Việt gian, Mỹ Ngụy..Nhưng cuối cùng, khi Pháp rời Đông Dương năm 1955, đă trả lại sông núi cho người Việt, không thiếu một tất đất, kể cả những cơ sở, đồn điền cũng giao hoàn. Suốt thời gian nội chiến 1955-1975, VNCH không hề bán nhượng cho Hoa Kỳ một cọng cỏ v́ tới sáng ngày 30-4-1975, Mỹ đă rút hết về nước. Trái lại VC trong suốt bao năm, làm đủ chuyện phản tặc, từ công nhận Hoàng Sa-Trường Sa là của Tàu, rồi tiếp tục bán nhượng đất đai, sông núi của Tổ Quốc, đó là chưa nói tới, cái sự đem đất thế chấp làm vốn, để đầu tư với Tư bản kiếm tiền bỏ túi.

Trước năm 1975, lúc nào cũng nói VNCH tham nhũng, độc tài, Diệm-Nhu, Thiệu ốKỳ chạy theo Mỹ, nay rơ ràng hơn chính đảng VC và Hồ Chí Minh, mới đích thực ôm đ1t hết Nga tới Tàu, nay sắp bỏ chân qua Mỹ-Nhật. C̣n Cán bộ đảng th́ tham nhũng, hốt trọn tài sản của dân nước, chuyển hết ra nước ngoài, rửa tiền , đầu tư, làm giàu và hưởng thụ, ai chết mặc bây. Đó chính là thành tích lịch sử của Đảng VC./-

TÀI LIỆU THAM KHẢO :

-Bài viết của GS. Trần Đại Sỷ, Trần Gia Phụng, Chính Đạo.
-Nam Quốc Sơn Hà
-Lê Công Phụng giải thích về sự bán nước cho Tàu
-Pham Phong Dinh ‘Chiến Sử VNCH’
-Hải Chiến Trường Sa của NS.Đoàn Kết..
XB tháng 5-2004
HỒ ĐINH

-- Khao Khat Cho VN Duoc TU DO (Khao_Khat_Cho_VN_Duoc_TU_DO@hn.vnn.vn), June 30, 2004.


Moderation questions? read the FAQ