LÀM MỘT V̀ SAO

greenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread

LÀM MỘT V̀ SAO Hoàng Long.HDB..........www.daichung.com "Xa mặt cách ḷng", câu tục ngữ đó không áp dụng trong trường hợp của Phong và Trúc: hai người yêu nhau, Trúc ở Mỹ, c̣n Phong ở Việt nam; xa nhau sáu năm đằng đẳng; nhưng rồi Trúc đă trở lại Việt Nam lập thủ tục lănh người yêu qua Mỹ. Trong thời gian c̣n xa cách, Phong có lẽ đă thầm ước được làm Một V́ Sao để *** Chờ gọi phỏng vấn đă mấy năm, cho tới khoảng 1988, không thấy tăm hơi ǵ, cha mẹ Trúc và Mai quyết định cho hai chị em về Vĩnh Long sống với bà d́ để có việc làm và học Anh văn. Tại lớp học Anh văn, Trúc và Mai đă gặp Phong, một sinh viên giỏi nhưng không vào được đại học v́ ba của Phong là sĩ quan của chế độ cũ. Phong học thêm tiếng Anh để chờ thời. Bộ ba Phong, Trúc, và Mai từ đó thân nhau và Phong đă đem ḷng yêu Trúc. Phong sinh trưởng tại Vĩnh Long nên biết khá rành Vĩnh Long như những ǵ trong túi ḿnh. C̣n Trúc, hồi c̣n đi học, rất thích môn lịch sử và tiểu sử các danh nhân. V́ thế những đêm tan học về, bộ ba thường dạo bước dưới bầu trời đầy sao lấp lánh và thường hỏi nhau về lịch sử. Một hôm, Trúc hỏi Phong: - Anh có biết thành phố Vĩnh Long trước đây như thế nào không? Như găi đúng chỗ ngứa, Phong đằng hắng, chơm chớp đôi hàng mi cong như mi con gái, chúm chím môi cười, rồi thong thả kể: - Khi biết không thể chống giữ, cụ Phan Thanh Giản đă tự vẫn để cho quân Pháp chiếm thành. Từ đó Pháp ra lệnh san bằng và xây cất thành phố theo một đồ án mới có nhiều phố, đường sá trải đá và trồng cây. Phía mé Sông Cổ Chiên có Nhà Thờ Chánh Ṭa và có Trường Nguyễn Trường Tộ; Dọc theo con Sông Cái Cá có con đường trước gọi là Đường Citadel chạy tới Đường Hưng Đạo Vương. Ở bờ sông gần Nhà Bưu Điện là bến tầu đi Lục Tỉnh và Nam Vang. Về phía Long Hồ th́ có con Sông Thiền Đức. Phía đầu sông có ṭa nhà gọi là Bungalow. Phía dưới có cầu tầu do chú Hỉ xây cất riêng cho tầu của hăng chú cập bến. Hồi chưa có Cầu Thiền Đức, th́ có đ̣ chèo; bến ở phía sau Nhà Việc Long Châu. Con đường Gia Long chạy qua trường Tống Phước Hiệp trước mang tên là đường Salicetti. Phía bên kia cầu Thiền Đức có hai con đường là Đường Lê Minh Thiệp chạy dài từ bến đ̣ Cầu Dài vô Chùa Long Phước, cho tới chợ Ngă Tư Long Hồ và con Đường Công Thần chạy từ Cầu Thiềng Đức tới Bến Đ̣ Đ́nh Khao, nay quen gọi là Bắc Cổ Chiên, rồi Cái Sơn, Mỹ An và An Phước. Đ́nh Khao được kể là nơi Nguyễn Ánh khao quân mỗi khi chiến thắng quân Tây Sơn, và cũng là nơi Linh Mục Phillippe Phan Văn Minh đă bị triều đ́nh hành quyết. Ở Long Hồ có Văn Thánh Miếu và Miếu Thờ Cụ Phan Thanh Giản. Gần Cầu Lộ có con đường chạy từ Thánh Thất Cao Đài qua Ṭa Giám Mục, và sau Rạp Hát Lạc Thành (nay là Lê Thanh) gọi là Đường Cổ Tŕ. Từ Ngă Ba Cần Thơ có con đường có đường tên là Trần Công Lại chạy tới Cầu Cái Cá. Ngoài ra Vĩnh Long c̣n có các xóm như Xóm Ḷ Rèn nằm bên bờ Rạch Cá Trê c̣n gọi là Rạch Cầu Lầu; Xóm Bún có nhà ông Phán Nuôi, một cự phú chơi đồ cổ và lập hăng tầu đi lục tỉnh; Xóm Đáy và Xóm Chài ở phía bờ Sông Cổ Chiên. Trúc hỏi Phong: - Thế Phong nghĩ thế nào khi người Cộng Sản lên án cụ Phan là hèn, không dám chiến đấu đến phút cuối cùng và trong cuốn Văn Hóa Việt Nam của Hà Nội xuất bản cũng như trong trường học, tên tuổi cụ Phan đă không được nhắc đến? Phong nhếch mép cười, trả lời: - Người CS rất đắc tội với các bậc tiền nhân. Cụ Phan đă tuẫn tiết, cũng như sau 75, các nhân vật thuộc Việt Nam Cộng Ḥa như Tướng Lê văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Trần Chánh Thành, v.v. cũng tuẫn tiết. Tất cả đều là những điểm son chói lọi trên những trang sử Việt chính thống. Người Cộng Sản mất tông, mất gốc đă cố t́nh phê phán cụ Phan như vậy nhằm kích động và răn đe đám binh sĩ của họ không được đầu hàng. Ở Liên Xô trước đây cũng vậy: một thanh niên t́nh nguyện sang Nam Tư chiến đấu cho lư tưởng CS, bị Đức bắt làm tù binh, rồi được tha. Khi trở về Liên Xô, anh được tiếp đón như một anh hùng, được một chân dạy học và thường kể lại những thành tích chiến đấu ở Nam Tư. Khi Nam Tư hục hặc với Liên Xô, lập tức anh bị một tên học tṛ gay gắt lên án anh là "đă không chiến đấu tới cùng!" Rồi anh bị theo dơi và sa thải. Chính Hồ Chí Minh khi thăm đền thờ Đức Thánh Trần đă làm thơ kêu bằng bác, xưng tôi, và ví ḿnh công đức ngang với Đức Thánh trong câu: “Bác có công dựng nước; tôi có công giữ nước.” Đó thật là một thái độ quá ngạo mạn, Trúc và Mai biết không? - Biết chứ. Thế Phong có nghĩ là Hồ Chí Minh có công giải phóng đất nước không? - Không! Không bao giờ! Các bậc thức giả nhận xét: HCM là người kiến thức ít ỏi, tâm tính nham hiểm, lại đầy tham vọng, và đă được Liên Xô huấn luyện kỹ càng để sử dụng làm tay sai trong kế hoạch bành trướng chủ nghĩa CS tại Đông Nam Á. Nhờ đó HCM đă được đánh bóng kỹ lưỡng thành một nhà ái quốc, khoác cho một bộ áo đạo đức cách mạng, không vợ con, giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân và phong kiến. Quần chúng bị lầm nên đă ủng hộ ông ta. Đặc công Nguyễn văn Trỗi đặt bom ở cầu Công Lư, trước khi bị ra pháp trường, đă nói với Luật Sư Nguyễn Văn Chức hồi đó rằng: “Em đă bị chúng nó [Việt Cộng] lừa. Tội cho Quyên, vợ em! Tội cho mẹ em!" Đặc công Trần Văn Đang đặt chất nổ trên Đường Tự Do, Saig̣n năm 1965 cũng khóc trên vai LS. Chức tại pháp trường và nói: “Em bị chúng nó lừa. Luật sư nhớ bảo vợ em đừng nghe theo chúng nó, đừng ở dưới vườn; và nuôi con." Nói đến đây, Phong nh́n thẳng vào mắt Trúc, lên giọng và tiếp: -Thực tế nếu không có họ Hồ th́ Việt Nam có thể đă độc lập lâu rồi như Ấn Độ và Phi Luật Tân được độc lập năm 1946; Miến Điện năm 1947; và Nam Dương năm 1949 v.v. đâu có cần chinh chiến ǵ? Ngược lại, có chiến tranh với Pháp, HCM mới có cơ hội nắm quyền kiểm soát và tiêu diệt các đảng phái quốc gia và các tôn giáo. Như vậy, họ Hồ có tội với dân tộc chứ không có công. - Thế chuyện HCM không vợ, không con. Điều đó có tin được không? Phong bật cười lớn như muốn chế nhạo Trúc và Mai: - Có ngây ngô lắm th́ mới tin được điều đó. Để trở thành một thần tượng chói ḷa, một Cha Già dân tộc khả kính, HCM buộc phải ém nhẹm chuyện vợ con. Một ông bác già của Phong đă kể: "HCM ăn nằm với nhiều phụ nữ và có nhiều ḍng con". Phong chỉ nêu một chuyện thôi. Năm 1925, lúc tá túc ở nhà Lư Huệ Quần, vợ của Nhà Cách Mạng Việt Nam nổi tiếng lúc đó là Lâm Đức Thụ, người sáng lập ra Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, tên thật là Nguyễn Công Viễn, con trai cụ Tú Nguyễn Hữu Đàn, cháu nội của Nguyễn Mậu Kiến, HCM đă ăn ở với Lư Huệ Khanh, em gái của Lư Huệ Quần, và có một con gái. L H. Khanh bị Quốc Dân Đảng giết năm 1927. Có thể từ đó HCM lấy bí danh là Lư Thụy để nhớ mối liên hệ với người yêu họ Lư này. Lâm Đức Thụ giúp đỡ HCM như thế, nhưng v́ muốn chiếm ngôi vị độc tôn nên HCM đă cho hạ sát họ Lâm tại quê Vũ Trung, Kiến Xương, Thái B́nh, vào năm 1947 với tội gán cho là chỉ điểm, tay sai của thức dân! Trúc gật gù tỏ vẻ đồng ư và nói: - Em cũng nghĩ HCM chẳng phải là thần thánh ǵ mà phải sống độc thân. Chẳng bao lâu sau 1975, thần tượng HCM đă sụp đổ và thời đại HCM chỉ là một vết nhơ trong lịch sử với tội giết hại các nhà yêu nước và tạo nên hai cuộc chiến đẫm máu tại Đông Dương chỉ nhằm thiết lập chế độ tổng tập quyền lực - totalitarism. Chính v́ thế, gần đây vào năm 1989, tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc đă quyết định hủy bỏ vinh danh HCM. * Một hôm bộ ba dạo chơi từ phía mé sông Trường Nguyễn Trường Tộ đi lên, Phong chỉ vào chỗ miếng đất xây cất Bungalow và nói đó là đất của ông Lê Chí Thiện, thân sinh của nữ nghệ sĩ tài sắc vẹn toàn Lê Thị Thanh Tùng. Cô đă được công tử Phước George ở Mỹ Tho rước về lập gánh hát Huỳnh Kỳ vào năm 1932. C̣n con đường Cổ Tŕ th́ có lẽ nguyên có tên là Phấn Cố Tŕ, rồi gọi tắt là Cổ Tŕ. Phấn Cố Tŕ là Tướng của Nhà Nguyễn, tên là Trương Phúc Phấn có công cố tŕ giữ Lũy Trường Dục, nên được tôn là "Phấn Cố Tŕ." Đi chơi với Phong, học được nhiều điều lịch sử thú vị nên Trúc càng ngày càng cảm phục Phong. Chàng hoạt bát, lanh lợi, lại ham tập thể dục và thể thao, thân h́nh cường tráng nên Trúc thấy càng bị thu hút; mặc dù nàng rất lo lắng là chàng không thuộc diện nào để xuất ngoại cả. Cho đến khi gia đ́nh Trúc nhận được giấy kêu phỏng vấn và cho đi khám sức khỏe th́ Trúc thấy rơ là nàng đă yêu Phong hơn bao giờ hết, khi Phong thú nhận là đă yêu Trúc ngay tự buổi đầu gặp gỡ tại lớp Anh Ngữ. Ḷng nàng sao xuyến bồi hồi, nhưng lại buồn bă khi nghĩ đến nỗi đau đớn của Phong lúc phải chia tay mỗi người mỗi ngả nàng đi Mỹ và chàng ở lại. Biết đến bao giờ mới lại được gặp nhau? Phong ốm hẳn đi và thờ thẫn như người mất hồn. Cha mẹ Trúc quá lo lắng cho chuyến đi nên cũng không có ư kiến ǵ. Thầy Bằng thông cảm với tâm sự của Phong và Trúc nhất. Mối t́nh của họ sẽ ra sao? Phong có thể chung thủy, tin, và kiên nhẫn chờ đợi Trúc năm hoặc sáu năm sau trở về làm đám cưới và bảo lănh Phong không? Nhiều đêm Trúc đă khóc thầm để cha mẹ và các anh chị em không biết tâm sự của nàng. Trúc phải đi v́ ở lại cũng không lợi ích ǵ. Đi th́ có hy vọng có ngày về bảo lănh; ở lại th́ tương lai không có. Nghĩ thế nên Trúc quyết định cắn răng ra đi, bỏ lại một người mà nàng biết là ngoài Trúc ra người đó sẽ không c̣n yêu ai nữa; c̣n Trúc, nàng đă yêu Phong th́ cũng sẽ không c̣n yêu ai nữa. Chờ đợi năm sáu năm để rồi đoàn tụ đối với họ không phải là điều khó khăn. V́ thế họ đổi buồn thành vui. Thầy Bằng dạy và hát tặng họ bài "The Red River Valley" mà thầy đổi ra tiếng Việt là "The Cửu Long River": Do you think of the valley you are leaving? We will miss your bright eyes and sweet smile. Do you think of the kind hearts you’re breaking and the pain you are causing to me. They will bury me where you have wandered, near the hills where the daffodils grow. When you’re gone from the River of Cửu Long for I can’t live without you I love! Thầy vừa đàn vừa hát bằng tiếng Anh, rồi lại chuyển qua tiếng Việt cho dễ thông đạt hơn. Trúc và Phong vừa khóc vừa nghe thầy lên giọng câu: "Nhớ chăng em, anh sẽ là, là một ánh sao soi dặm đường em đi khắp bốn phương trời...” Những ngày c̣n lại bên nhau, Trúc và Phong rủ nhau đi thăm lại những chốn kỷ niệm. Họ lên Đền Thờ Phan Thanh Giản. Cảnh vườn quanh Đền vắng lặng, đ́u hiu. Trong gian thờ, mũ áo, vơng lọng c̣n đó nhưng âm u tịch mịch. Trúc hỏi Phong: - Cụ Phan sống chính trực; chết trung kiên như thế mà lũ hậu sinh khả ố phê phán là hèn nhát; như vậy liệu hồn cụ có buồn không? Phong trả lời với ánh mắt long lanh như thường lệ: - Chắc cụ chẳng chấp ǵ lũ ma quỷ đó đâu. Chẳng qua tụi chúng nó nhất thời đắc thế, dựa vào Nga Tầu và dùng bạo lực mà chiếm chính quyền; sớm muộn ǵ cũng nối gót đàn anh Liên Xô mà tự tan ră thôi. - Thế anh có biết tại sao Mỹ bỏ Việt Nam không? Có phải v́ quân lực Việt Nam Cộng Ḥa yếu hèn như mấy nhà chính khách và báo chí Mỹ nói đó không? Phong mím môi không nói. Chúng tôi dắt tay nhau ra ngoài vườn, ngồi dựa vào mấy gốc cây cho có bóng mát. Trời chớm vào thu: bầu trời trong xanh; gió hơi gây lạnh; và nắng vàng ấm gợi đầy nhung nhớ. Phong ngắt một bông hoa dại cài lên mái tóc ḷa x̣a của Trúc, mỉm cười, nói thầm bên tai nàng: - Em c̣n nhớ Tết Mậu Thân không? Quân ta chẳng pḥng bị ǵ v́ tin có hưu chiến; Việt Cộng tấn công bất chợt khắp 44 tỉnh miền Nam; lực lượng Mỹ bất động trong nhiều giờ. Nếu quân đội chiến đấu hèn th́ Miền Nam đă mất từ lúc đó rồi, phải không em? Rồi đến Mùa Hè Đỏ Lửa 72, Việt Cộng chiếm Quảng Trị rồi bị đánh bật ra. Trong hai trận ấy, lính VC miền Nam chết vô kể; lính Miền Bắc chết phân nửa. Việt Cộng chịu hy sinh như thế chỉ cốt để tạo dư luận ép quốc hội Mỹ chấm dứt viện trợ cho Nam Việt Nam, trói tay quân đội Mỹ chiến đấu tại Nam VN. Ba anh nói trong cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ vào những năm 1860, hai miền Nam và Bắc Hoa Kỳ xung đột. Qua một trận chiến mỗi bên có thể chết đến cả chục ngàn trong một đêm. Cuối cùng Miền Bắc thắng. Như vậy có phải quân Miền Nam chiến đấu hèn chăng? Không! Quân đội Miền Nam lúc đó chiến đấu rất kiên cường. Mới đầu họ thắng; sau thua v́ thiếu tiền, thiếu vũ khí và thiếu nhân lực. Miền Bắc thắng v́ có Pháp trợ giúp và người da đen đứng dậy cầm súng để được giải phóng. Cả hai miền Nam và Bắc Mỹ lúc đó đều chiến đấu với danh nghĩa độc lập và tự do cả đ?y! - Thế sao Mỹ lại phải rút quân khỏi Nam Việt Nam và Miền Nam không chiến đấu một ḿnh? Phong lấy tay nâng cằm Trúc lên, nh́n thẳng và mắt nàng, mỉm cười và nói: - Em tôi không ngây thơ đấy chứ? Anh đùa đấy! Chính ba anh và nhiều người hồi đó cũng ngây thơ, cứ tưởng là Mỹ không bao giờ bỏ Miền Nam như lời TT Nixon đă cam kết. Trước 75, ông bác của anh đă nói với ba anh rằng: làm chính trị mà cả tin vào ngoại bang là tự chuốc lấy thất bại. Đó là trường hợp của các đảng phái quốc gia trước 45 đều cả tin vào Trung Hoa Quốc Dân Đảng, cả tin vào Nhật nên đại sự đă bị tiêu tan. Sau 1945, Tổng Thống Roosevelt muốn ba nước Đông Dương được độc lập và đặt dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc một thời gian cho đến khi biết cách tự quản trị. Đùng một cái TT Roosevelt đột ngột qua đời; kế hoạch đó bị bỏ xó và Hoa Kỳ đổi ngay chính sách: giúp cho De Gaulle trở lại Đông Dương. Pháp lănh đạn tự đem quân ḿnh ngăn đà bành trướng của khối Cộng thay cho Mỹ được chín năm! Sau đó Mỹ đích thân thế chân Pháp vào Việt Nam với mục đích để Khối Cộng tiếp tục phải tiếp tục rỉ máu, rỉ tiền bạc vào chiến trường khiến kinh tế lụn bại và Mỹ th́ có th́ giờ chế tạo vũ khí bí mật ưu thắng cho thế chiến thứ ba nếu nổ ra. Cụ Diệm đă cả tin vào Hoa Kỳ, lại ngăn cản không cho Mỹ đổ quân và tính kế tự lập tự cường. Nhưng người Mỹ đă chặt hết vây cánh của cụ và cô lập cụ rồi, nên cụ trở tay không kịp. Ở Liên Xô, nhà lănh đạo trẻ Gorbachev đă ư thức được chiến lược này nên chịu chấm dứt cuộc chạy đua vơ trang nguyên tử và chịu giải thể đảng Cộng Sản để tránh bị tự hủy diệt. Như vậy vai tṛ là tiền đồn chống Cộng của Miền Nam Việt Nam đă không c̣n ư nghĩa nữa, thêm vào đó Mỹ lại bị kẹt cứng khi quần chúng trong nước và thế giới mạnh mẽ lên án Cuộc Chiến VN và đ̣i Mỹ rút, nên Mỹ đành phải buông Miền Nam và để cho Liên Xô hưởng những quân dụng c̣n nguyên vẹn để lại ở Miền Nam. Trung Cộng ức quá bèn tiến quân đánh người em xă hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1979 và gọi đó là một bài học cho kẻ vô ơn, bội nghĩa! Kể từ khi nhận được sự đồng ư của Liên Xô từ 1968 và của Trung Cộng từ 1972, Mỹ đă t́m được giá để rút khỏi Miền Nam trong danh dự và đồng thời đổi lấy ḥa hoăn ở Trung Đông giữa Do Thái và các nước thuộc khối Ả Rập. Trúc bật cười hỏi: - Sao anh rành sáu câu vọng cổ quá vậy? Anh c̣n quá trẻ sao mà biết được nhiều chuyện thế? - Th́ anh đă nói là anh chịu khó ngồi nghe các ông chú, ông bác của anh nói chuyện. Thế thôi. - Vậy chứ bác anh là ai mà rành quá vậy? Cho em gặp được không? - Em gặp làm ǵ? Chắc lại hỏi chừng nào Cộng Sản Việt Nam sụp đổ phải không? - Sao anh hay quá vậy. Ai bây giờ cũng biết là CSVN sẽ sụp đổ; ai cũng mong như vậy. Bên nhà em có ông già đă trên tám chục; ông nói với em là chỉ mong thọ thêm ít tuổi để được nh́n ngày tụi cộng sản sụp đổ; ông chết mới vui ḷng. Thế anh có biết chừng nào CS sụm không? - Bác anh suy luận như thế này: Mỹ đă tỏ ra ân hận về sự sai lầm trong chính sách đối với Nam Việt Nam mà hậu quả là phải bỏ Miền Nam và cưu mang những người thiết tha với lư tưởng chống chủ nghĩa CS. Mỹ trông mong vào thế hệ trẻ ở trong nước cũng như là ở hải ngoại sẽ đứng lên đ̣i hỏi giải thể hoặc lật đổ chính quyền CS. Mỹ ngấm ngầm giúp cho biến cố đóù sớm xẩy ra thôi. Việt Cộng cũng biết được ư đồ đó nên ở trong nước th́ chúng thanh lọc các phần tử trẻ đáng nghi; ở ngoại quốc th́ mượn danh người quốc gia để lập các liên minh nhằm khống chế các hội đoàn chống Cộng thật sự; v́ thế đă xẩy ra t́nh trạng bát nháo, không đoàn kết giữa các hội đoàn này nọ ở hải ngoại. Người nào mất niềm tin và tiêu cực là kể như là lọt vào bẫy của chúng đấy. - Như thế th́ làm sao mà hóa giải đ̣n phép của chúng và lớp trẻ như anh và em có thể làm được ǵ chăng? À lại nghe nói c̣n có cả một âm mưu ở hải ngoại đ̣i bỏ Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ nữa đấy, anh nghĩ sao? Phong chậm dăi hít một hơi thở sâu như để có thời gian cân nhắc từng ư trong câu nói: - Này Trúc à! Em có tổ quốc không và tổ quốc của em là ǵ? - Em có tổ quốc chứ! Tổ quốc của em là Việt Nam, Việt Nam không cộng sản. - Tốt! Nhưng anh hỏi em, linh hồn của tổ quốc là ở đâu, em biết không? - Em nghĩ, em nghĩ linh hồn tổ quốc ở khắp mọi nơi, ở trong tâm hồn của mọi người, và ... Phong đỡ lời: - Và ở tại lá cờ. Lá cờ là linh hồn của tổ quốc. Ai c̣n nói có tổ quốc Việt Nam không cộng sản trong tâm hồn th́ phải tôn trọng và bảo vệ lá cờ này. Giản dị thế thôi. C̣n câu hỏi chúng ta phải làm ǵ bây giờ, th́ bác anh có bàn như thế này: kể từ 1975 th́ thế hệ trẻ sớm nhất trông mong được là lớp thanh niên 25 tuổi vào những năm 2000. Như vậy sớm nhất th́ trong thập niên đầu của thiên niên 2000 mới hy vọng có thay đổi. Thế hệ anh và em chỉ để là thế hệ độn mà thôi. Muốn hóa giải đ̣n phép của Việt Cộng th́ phải có nhiều tiền, có nhiều lá phiếu, có địa vị then chốt trong xă hội Hoa Kỳ, và có lối chống Cộng tân tiến; kiểu chống Cộng cổ điển chẳng thu hút được ủng hộ của quần chúng Mỹ nữa. Đối với lứa tuổi của anh và em th́ chúng ta hăy cố ngẩng mặt lên, đừng phê phán mà hăy ráng làm một cái ǵ cho có ư nghĩa trong cuộc sống có lư tưởng của chính ḿnh đi. Thế thôi. Chợt có một đám người mới tới trong đó một du khách người Úc trên bẩy chục mà Phong đă làm quen. Ông nói ông là một thủy thủ từ nhỏ và đă từng đi du lịch trên một trăm nước; ông là cha nuôi của một thanh niên Việt tỵ nạn ở Úc, nay ông phải đích thân đưa thanh niên đó về thăm gia đ́nh. Phong hỏi ông nghĩ ǵ về người Cộng Sản; ông trả lời ngắn gọn: "liars!" (đồ xạo). Rồi họ kiếu từ chia tay. Trúc rủ Phong tối mời thầy cô Bằng đi ăn cà rem. Trước đây họ thường đi ăn cà rem mỗi khi trong kỳ thi có ai bị điểm kém nhất. Trước khi đi thầy Bằng cho biết đă hoàn tất bài ca "Làm Một V́ Sao" để tặng cho chúng tôi làm kỷ niệm. Thầy lấy đàn và hát; Trúc, Mai, và Phong lắng nghe. Mở đầu thầy ngâm hai câu thơ của thầy Hiền ghi tặng trên bản nhạc của thầy: Em chừ như cánh hạc bay. Anh chừ c̣n lại tháng ngày bơ vơ! và thầy đọc mấy câu trước khi vào nhạc: "Em đến với anh như một cánh chim; Em đến với anh như một áng mây. Chim sẽ bay và mây sẽ trôi; chỉ c̣n anh ở lại. Vắng em, vũ trụ h́nh như không hồn." Rồi thầy cất giọng hát: Gặp em như gặp một cánh chim: chim bay rồi, tâm hồn anh tan nát; em đi rồi, hai phương trời xa cách; mắt hoen mờ, lệ thắm ướt vai anh. Gặp em như gặp một áng mây: mây của trời, gió làm cho xa cách; chuyện chúng ḿnh ai làm cho cách xa! Bóng chim trời em vỗ cánh bay cao; anh ở lại làm v́ sao em nhé! Soi dặm đường em dấn bước chân đi. Bước chân ngày xa xưa, tan trường về chúng ḿnh chung lối; anh đưa em về dưới trời đầy sao sáng; anh đưa em về, ḿnh đếm bước dưới sao. T́m em nay t́m trong giấc mơ: mơ em về để t́nh ta chắp nối; mơ em về chắp nối t́nh ta! Lời nhạc diễn tả đúng tâm trạng của Trúc và Phong khiến cả hai cùng không cầm được ḍng nước mắt. Thầy Bằng vội an ủi: "hăy can đảm lên để chấp nhận một thực tại và giải quyết theo chiều hướng tốt đẹp nhất. Trúc sẽ vào quốc tịch và bảo lănh Phong trong ṿng sáu năm nữa. Thời gian sáu năm không phải là quá dài đối với tuổi của các tṛ. Hy vọng là nguồn sống. Thời gian chờ đợi là thử thách. Thôi hăy vui lên và chúng ta cùng đi ăn kem. * Sau sáu năm, đúng hẹn Trúc trở lại lập hôn thú với Phong và ít lâu sau đó Phong đă được nhập Hoa Kỳ. Họ hoan hỉ chấp nhận Hoa Kỳ là quê hương và tổ quốc thứ hai. Họ khởi sự gầy dựng tổ ấm và đă đạt được một số thành công. Cuộc sống mới ở Mỹ mở ra cho họ nhiều cơ hội tiến thân, nhưng cũng làm cho họ mất mát nhiều những hương vị thuần túy quê hương cũ. Thật ra về những hương vị đậm đà của quê hương cũ th́ thực chất đă mất mát nhiều kể từ khi văn hóa vô thần và nô dịch của Cộng Sản Hà Nội lan tràn sau khi họ cưỡng chiếm miền Nam. Trong cuộc sống khá đầy đủ về vật chất, Trúc, Mai, và Phong vẫn không thể nào quên được những cực kỳ đau khổ mà quê hương nhỏ bé đă phải hứng chịu trong 30 năm qua hai cuộc chiến xuất phát từ những tham vọng làm bá chủ Đông Dương của đảng Cộng Sản Việt Nam. Trúc, Mai và Phong đă giữ sự câm lặng trước mối nhục nhă khi quê hương đă và vẫn chỉ là món hàng cho các cường lực trao đổi. Cuộc nổi dậy của nông dân và công nhân năm 1945 đă bị phản bội; cuộc chiến đấu của toàn dân Nam Việt nam đă bị phản bội. Trong những nỗi thất vọng, một hy vọng bỗng lóe lên khi Phong, Trúc, và Mai nhận được thư của thầy Bằng trong đó có viết “Khi nào lực lượng trí thức làm cuộc nổi dậy để đ̣i lấy quyền lănh đạo th́ đất nước mới thực sự vươn lên được, và ngày ấy chắc sẽ không xa nếu các tṛ có sự sẵn sàng tham gia." "Trí thức nổi dậy", Phong bật cười lớn và nói với Trúc và Mai: - Ḷng mơ ước t́m ṭi hiểu biết đă làm cho giới trí thức không màng đến quyền hành chính trị và nhiều người trí thức đă bị mua chuộc để trở thành công cụ. Nếu lực lượng trí thức đứng dậy giành lấy vai tṛ lănh đạo th́ đất nước mới thật sự hy vọng có những thành tựu tốt đẹp như mọi người chờ đợi. Thầy Bằng nói có lư đấy. Chúng ḿnh sẽ tham gia. Mai vốn là người trầm lặng, ít nói nhất, cũng cất tiếng cười và họa theo: - Nếu cứ để cho bọn người kém cỏi nắm quyền lănh đạo, trí thức cam cúi mặt làm trâu ngựa, th́ đất nước sẽ lănh nạn và không thể sáng sủa lên được.

TỰ-DO DÂN-CHỦ SẼ TOÀN THẮNG.



-- (tosu_cs@yahoo.com), June 18, 2004

Answers

Response to LĂ€M MỘT VĂŒ SAO

Tội Ác HCM: Hồ Chí Minh và một giai đoạn lịch sử Thanh Thảo (Liên Minh VN Tự Do) www.butvang.org Đă có rất nhiều bài viết về Hồ Chí Minh, nhân vật đă khơi nguồn cho những tai họa của dân tộc Việt Nam từ nhiều thập niên qua. Nhưng thêm một bài viết nữa cũng không phải là vô ích, ít nhất nó cũng góp phần làm sáng tỏ một giai đoạn lịch sử mà ngày nay, với guồng máy cầm quyền trong tay, đảng CSVN đang viết theo "sự thật của họ" nhằm đầu độc những thế hệ tương lai. "Ra đi t́m đường cứu nước, Bác mang theo h́nh ảnh người dân miền Nam đau khổ dưới ách nô lệ phong kiến thực dân…". T́nh cờ đọc được những gịng chữ này trong một bài viết mang tên "Miền Nam trong trái tim người" đăng trên báo Nhân Dân ngày 19/5/98, tôi đă khám phá thêm một giai thoại mới về nhân vật Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh "rất thèm miền Nam" và v́ thế mà nhất quyết tiến hành cuộc "Nam Tiến". Từ trước tới nay, chuyện Hồ Chí Minh "hy sinh cả đời cho công cuộc cứu nước, không màng đến hạnh phúc cá nhân..." đă được đảng CSVN vẽ vời như một bậc thánh. Nhưng sự thật về những lời ca tụng này đă được từ từ vạch rơ, với những câu chuyện về Nguyễn thị Minh Khai, Nguyễn thị Xuân với cái chết thật đau đớn và bí mật, Phương Mai ở Khu Bốn, Lư Huệ Khanh (em vợ của Lâm đức Thụ)... Người ta cũng biết Hồ Chí Minh với các tên gọi tự phong cho ḿnh như "Cha Già Dân Tộc", "bác Hồ vĩ đại" (vĩ đại hơn cả Lê Lợi, Trần Hưng Đạo...) Sau khi đọc một số tài liệu, điều đáng chú ưÏ nhất là số lượng tên giả của con người mà người ta hay gọi là Hồ Chí Minh, con số này nhiều đến nỗi người ta đă quên mất cái tên cúng cơm của ông. Không phải chỉ có cái tên mà ngày sanh của ông, người ta cũng không biết đích xác là năm nào. Trên bước đường bôn ba từ Á sang Âu, mỗi nơi ông khai một tên với một ngày sanh khác. Bên cạnh đó, những mưu mô của Hồ Chí Minh cũng thật là nham hiểm và ác độc... Từ Nguyễn Sinh Cung đến Nguyễn Tất Thành: những ngày c̣n "trong trắng". Cái tên cúng cơm của Hồ Chí Minh được ghi nhận là Nguyễn Sinh Cung, đảng CSVN công nhận năm sinh của ông là 1890, quê ở làng Hoàng Trù, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân sinh là ông Nguyễn Sinh Huy (sau đổi tên là Nguyễn Sinh Sắc), bạn đồng khóa với cụ Phan Chu Trinh (1). Năm 1905, ông theo cha vào Huế và theo học tới trường Quốc Học. Ông đă bị đuổi khỏi trường sau khi tham dự cuộc biểu t́nh đ̣i giảm thuế trước Ṭa Khâm Sứ tới Huế (13/5/1908). Năm 1909, ông Huy được bổ làm tri huyện B́nh Khê (B́nh Định), ông cũng theo vào và tới đây làm nghề trợ giáo, với cấp bằng Certificat (tiểu học) và sau đó tiếp tục học lên tới năm thứ hai bậc trung học (2). Đượïc ít tháng, ông Huy bị thi hành kỷ luật, giáng chức tri huyện và phải dời vào Sài G̣n sinh sống. Nguyễn Sinh Cung cũng theo cha vào Nam và đổi tên thành Nguyễn Tất Thành từ đó. Tới Sài G̣n, Nguyễn Tất Thành theo học trường Bách Nghệ, vài tháng sau xin vào làm việc ở sở Ba Son. Tháng 6 năm 1911, xin được một chân phụ bếp ở tàu La Touche Tre'ville và theo tàu đi khắp nơi, Âu châu, Mỹ châu, Phi châụ..(1) Từ Nguyễn Tất Thành đến Nguyễn Ái Quốc: từ "yêu nước" đến yêu đệ Tam Quốc Tế. Năm 1917, vốn là chỗ quen biết từ trước, Nguyễn Tất Thành đến ở chung với ông Phan Chu Trinh tới Paris. Ông gia nhập đảng Xă Hội Pháp và hay lui tới gặp gỡ, sinh hoạt với nhóm của cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền (hai nhà trí thức yêu nước du học tới Pháp), Nguyễn An Ninh (sau này theo CS đệ tứ), thường được gọi chung là nhóm Ngũ Long. Năm 1922, nhóm này bắt đầu viết báo chống thực dân, chủ động là cụ Phan Chu Trinh với sự đóng góp tích cực của các ông Trường, Truyền, c̣n Nguyễn Tất Thành th́ lănh nhiệm vụ giao bài đến các ṭa soạn. Cả nhóm lấy bút hiệu chung là Nguyễn Ố Pháp (những người họ Nguyễn ghét Pháp) sau đổi thành Nguyễn Ái Quốc, một bút hiệu được nhiều người yêu thích và làm gai mắt nhà cầm quyền Pháp. Cái hay là sau khi nhóm này tan ră v́ một số người lần lượt về nước, Nguyễn Tất Thành giữ bút hiệu này làm tên riêng của ḿnh. Và mọi người được mặc nhiên chiêm ngưỡng Nguyễn Ái Quốc bằng xương bằng thịt mà người ta từng hâm mộ bấy lâu tới một số diễn đàn như câu lớc bộ Faubourg, Hội Nghị Versailles năm 1919, đại hội đảng Xă Hội Pháp tới Tours năm 1920... Khi Lénine thành lập Đệä Tam Quốc Tế năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đă say mê lư thuyết của Lénine và trở thành một trong những sáng lập viên của đảng Cộng Sản Pháp. Sau khi tham dự Hội Nghị Nông Dân Quốc Tế vào tháng 10/1923, Nguyễn Ái Quốc ở tới Moscou 18 tháng để nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê (3). Từ Nguyễn Ái Quốc đến Hồ Chí Minh: thay tên đổi họ để phỉnh gớt các đảng phái quốc gia. Trong phần này, chúng tôi chỉ xin nhắc đến một số sự kiện chứng tỏ sự mưu mô và tinh vi của Nguyễn Ái Quốc trong vai tṛ phục vụ CS Quốc Tế mà không đi vào chi tiết về các tổ chức đảng phái quốc gia cũng như nhiều biến cố khác. Từ tháng 12/1924, Nguyễn Ái Quốc được Cộng Sản Đệä Tam Quốc Tế gửi về Quảng Châu (Trung Hoa) để tổ chức các phong trào thân cộng ở vùng ựông Nam Á. a) Bán đứng cụ Phan Bội Châu cho Pháp, tiêu diệt VN Quang Phục Hội, tố cáo VN Quốc Dân đảng. Trở về Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc xuất hiện dưới chiêu bài chủ nghĩa dân tộc, dấu nhẹm cái gốc CS của ḿnh. Quốc đă t́m cách móc nối với nhóm Việt Nam Quang Phục Hội (VNQPH) do cụ Phan Bội Châu lănh đạo. Bất thành trong việc chiêu dụ để biến cụ Phan Bội Châu và VNQPH thành tay sai của Cộng Sản Quốc tế, Nguyễn Ái Quốc bàn với các thuộc viên rằng: cụ Phan nay đă già rồi, không c̣n thích hợp với cách mạng; do đó, nếu cụ Phan bị bắt sẽ khích động mạnh mẽ tinh thần yêu nước của người Việt và số tiền nhận được khi chỉ điểm cho Pháp có thể dùng cho việc nuôi dưỡng và đào tạo các lực lượng mới. (4) Sau đó, Quốc đă bày mưu cùng Lâm đức Thụ bán Cụ cho thực dân Pháp với giá 10 vạn đồng (một chi tiết cần biết để lượng giá món tiền này: lương công chức hạng trung lúc đó chỉ vào khoảng 300 đồng/tháng). Thụ viết thư mời cụ Phan nhân ngày giỗ của chí sĩ Phạm Hồng Thái cùng nhau tổ chức một cuộc tuyên truyền cho Cách Mạng Việt Nam. Cụ Phan tin thật, khăn gói lên đường và đă bị bắt khi tới Thượng Hải vào tháng 6/1925. (5) Một mặt, Quốc dùng số tiền này để gây dựng Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (VNTNCMDDCH); mặt khác đối với các thanh niên Việt Nam được gửi sang học trường vơ bị Hoàng Phố (Quảng Châu), Quốc và đồng bọn ra sức chiêu dụ họ tham gia VNTNCMDDCH, những người không đồng ưÏ đều bị chỉ điểm cho Pháp bắt khi họ được đưa về biên giới Hoa Việt. Với những thủ đoạn này, VNQPH dần dần tan ră và VNTNCMDDCH ngày càng mở rộng. VNTNCMDDCH thoát thai từ Tâm Tâm Xă, một bộ phận của Việt Nam Quốc Dân đảng lưu vong tới Trung Quốc. Nguyễn Ái Quốc đă khuyến dụ được một số đảng viên nồng cốt của Tâm Tâm Xă như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong gia nhập CS Quốc Tế và trở thành những cánh tay đắc lực của ḿnh. Ngoài ra, nhằm tiêu diệt mọi hoạt động của các đảng phái quốc gia, trong cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân đảng do Nguyễn Thái Học đề xướng vào tháng 2/1930, cán bộ đảng CS Đông Dương do Nguyễn Ái Quốc thành lập đă rải truyền đơn tố cáo cuộc chuẩn bị nổi dậy này. (6) b) Bí danh Hồ Chí Minh và các tổ chức Việt Minh, Việt Cách. Hồ Chí Minh nguyên là bí danh của cụ Hồ Học Lăm (1880 - 1942), hoạt động cùng thời với cụ Phan Bội Châu tới Trung Quốc. Là một người yêu nước, có tinh thần quốc gia, buồn ḷng trước cảnh đô hộ của Pháp, tuy không hoạt động cho Cộng Sản nhưng ông vẫn che chở và giúp đỡ tích cực cho các thành viên của nhóm Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (7). Ông đă từng cùng với cụ Nguyễn Hải Thần vận động kết hợp một số tổ chức đấu tranh như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Tân Việt Cách Mạng Đảng và Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội để thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh vào tháng 8 năm 1934 tới Nam Kinh. Nhưng tổ chức này đă bị ngưng hoạt động vào năm 1935 v́ các thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng nh́n rơ sự thao túng của các phần tử thiên cộng đang ẩn náu trong tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mớng ựồng Chí Hội (8). Vài năm sau, biết được ḷng yêu nước và ước muốn tập hợp các đảng phái của cụ Lăm, Nguyễn Ái Quốc đă lèo lái và làm sống lại tổ chức Việt Minh, cụ Lăm tham gia tích cực với tư cách là Chủ Tịch và Phạm Văn Đồng (bí danh Lâm Bá Kiệt) là Phó Chủ Tịch, cùng với những khuôn mặt CS khác như Vơ Nguyên Giáp (bí danh Dương Hoài Nam), Hoàng Văn Hoan (bí danh LưÏ Quang Hoa)..., khai báo cùng chính quyền Tưởng Giới Thạch với tên chính thức là "Biện Sự xứ Việt Minh Hải Ngoại" vào tháng 10 năm 1940 (9). Sau khi đảng CS Đông Dương thất bại liên tiếp trong các cuộc mưu đồ tổng nổi dậy chống Pháp từ Nam chí Bắc trong năm 1940, Nguyễn Ái Quốc đă trở về Việt Nam để tiến hành một số đường hướng mới. Ngày 19/5/1941, trong một phiên họp của Ủy Ban Trung ương tới Pắc Bó, đảng Cộng Sản ựông Dương đă tuyên bố thành lập "Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh" cũng gọi tắt là Mặt Trận Việt Minh, với mục tiêu kêu gọi ḷng yêu nước trong mọi tầng lớp dân tộc nên phải có một tên gọi thể hiện bản chất quốc gia rộng lớn, lôi cuốn và phù hợp với hoàn cảnh đất nước, thực chất hoàn toàn là do các cấp bộ cộng sản điều khiển ngay từ đầu. Song song với sự ra đời của mặt trận Việt Minh, một loạt tổ chức quần chúng ngoại vi của đảng Cộng Sản Đông Dương cũng được dựng lên và sinh hoạt trong Mặt Trận Việt Minh như Hội Công Nhân Cứu Quốc, Hội Nông Dân Cứu Quốc, Hội Thanh Niên Cứu Quốc, Hội Phụ Nữ Cứu Quốc, Hội Phụ Lăo Cứu Quốc... Mặt trận này cho ra đời tờ báo "Việt Nam Độc Lập" (10). Mặt Trận Việt Minh cố gắng che dấu các chương tŕnh, khẩu hiệu của đảng CS như tịch thu ruộng đất của địa chủ, chiến dịch cải cách ruộng đất..., và đă đưa ra một chương tŕnh hành động gồm 3 muc tiêu chính: Đánh đuổi thực dân Pháp và phát xít Nhật ra khỏi đất nước nhằm thu hồi nền độc lập cho Việt Nam; Liên kết với các lực lượng Đồàng Minh đặc biệt là Hoa Kỳ và Trung Hoa để chống lớiĐức, Nhật; Thiết lập một nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Trong lúc Mặt Trận Việt Minh ra đời tại Việt Nam th́ các tổ chức phe quốc gia, nồng cốt là Việt Nam Quốc Dân đảng, đang hoạt động ở Trung Hoa cũng vận động thành lập Việt Nam Cách Mớng Đồng Minh Hội (4/10/1942), gọi tắt là Việt Cách để đối đầu lới với nhóm Việt Minh v́ họ nhận ra tổ chức này là do CS dựng lên. Việt Cách được sự ủng hộ tài chánh và hậu thuẫn của Trung Quốc để phát triển, chủ tịch là Nguyễn Hải Thần. c) Nguyễn Ái Quốc đổi tên thành Hồ Chí Minh Sự thay đổi tên này xảy ra khi Nguyễn Ái Quốc từ Pắc Bó sang Trung Hoa vào tháng 8 năm 1942, ông bị bắt ngày 29/8/42 tới tỉnh Quảng Tây và tới đây ông đă khai với nhà nước Tưởng Giới Thạch tên là Hồ Chí Minh. Ông bị bắt giam tới nhà tù Liễu Châu trong ṿng 13 tháng. Về giai thoại này, có nhiều tài liệu ghi lới sự kiện khác nhau: - Theo Vơ Nguyên Giáp, Nguyễn Ái Quốc bị bắt v́ nhóm Việt Cách đă tố cáo là ông trở về Trung Hoa là để phá hoại tổ chức của họ (11). - Theo Hoàng Văn Hoan, trong chuyến đi này, Nguyễn Ái Quốc muốn đến thương lượng cùng Tưởng Giới Thạch về việc hợp tác chống Nhật. Nhưng theo lời khai báo của nội tuyến th́ mới khám phá Hồ Chí Minh chính là LưÏ Thụy, là Nguyễn Ái Quốc, là Hoàng Quốc Tuấn, đích thực là lănh tụ CS, lănh tụ Việt Minh nên Hồ Chí Minh đă bị bắt (12). - Trong quyển sách "Histoire du Vietnam", Philippe Devillers cho rằng Hồ Chí Minh bị bắt v́ cái tên Nguyễn Ái Quốc quá lừng danh, nhưng Quốc lại hứa với chính quyền Trung Quốc sẽ tổ chức hệ thống gián điệp tới Bắc Việt nên họ yêu cầu Quốc đổi tên là Hồ Chí Minh. (13) Nhà nghiên cứu Lữ Giang cho biết là năm 1937, ông Hồ Học Lăm về Hồ Nam, rồi sau đó về QuếÏ Châu hoạt động và lấy tên hẳn là Hồ Chí Minh. Cụ Lăm qua đời năm 1942, tất cả những giấy tờ và hồ sơ cá nhân của ông Lăm đều được chuyển về cho Nguyễn Ái Quốc để sử dụng cho dễ hoạt động, dưới danh nghĩa của một lănh tụ quốc gia có uy tín đối với Trung Quốc và phong trào cách mạng Việt Nam tới hải ngoại để đánh lừa các đảng phái quốc gia, xa hơn nữa là phe Đồàng Minh, nhất là Hoa Kỳ (14). Hồ Chí Minh phản bội VN Cách Mớng Đồàng Minh Hội (VNCMDDMH). Nhờ sự can thiệp của VNCMDDMH, chính quyền Trung Quốc đă trả tự do cho Hồ Chí Minh và Nguyễn Tường Tam (bị bắt vào cuối năm 1942, ông chạy sang Tàu v́ bị thực dân Pháp khủng bố) vào ngày 16/9/43 và sau đó cả hai đều về tham gia VNCMDDMH. Cuối năm 1943, VNCMDDMH phát động chương tŕnh về nước hoạt động, Hồ Chí Minh xung phong về nước, thề sẽ trung thành với VNCMDDMH. Cầm trong tay 20 vạn tiền Trung Quốc và 20 cán bộ do ḿnh tự chọn, Hồ Chí Minh lập ra nhiều chiến khu ở Thái Nguyên, Tuyên Quang nhưng với danh nghĩa Việt Minh chứ không phải Việt Nam Cách Mớng Đồng Minh Hội (15). Nhờ đó Mặt Trận Việt Minh phát triển tốt đẹp và đă công bố một tuyên ngôn chính trị ngày 6/8/44, đặc biệt quan tâm đến việc thành lập một chính phủ lâm thời. Nhờ khéo che đậy chủ trương CS cốt lơi bên trong, Việt Minh đă quy tụ được nhiều thành phần dân tộc, có nhiều uy tín đối với phe đồng minh, đặc biệt là Hoa Kỳ. V́ thế, sau khi Nhật đảo chánh, Hồ Chí Minh đă bắt tay hợp tác với t́nh báo Hoa Kỳ với bí danh là Lucius, và Hồ Chí Minh tuyên truyền khắp nơi rằng Hoa Kỳ đă ủng hộ ông ta (16). Hồ Chí Minh, từ cướp chính quyền đến thủ tiêu các đảng phái để độc quyền thống trị Ngày 15/8/45, sau khi Nhật đầu hàng phe đồng minh, phe Việt Minh đă áp lực buộc chính phủ Trần Trọng Kim phải nhường quyền qua sự xếp đặt của một số đảng viên CS đă được gài vào chính phủ này từ trước. Ngày 17/8/45, vua Bảo Đại đă tuyên bố giao cho Việt Minh thành lập nội các mới. Mặc dù trước đó, chính phủ Trần Trọng Kim đă công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 11/3/1945 (do ông Phạm Quỳnh biên soạn), Việt Nam đă trở thành một nước độc lập, chấm dứt thời kỳ bảo hộ của Pháp. Nhưng phe Việt Minh muốn chiếm lấy công dành độc lập về phe ḿnh nên ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh lại một lần nữa công bố Tuyên Ngôn ựộc Lập cùng với sự ra đời của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa tới quảng trường Ba Đ́nh. 7 ngày sau, quân Đồng Minh tiến vào để giải giới quân đội Nhật, quân đội của Tưởng Giới Thạch trách nhiệm miền Bắc, trong khi Anh, Úc, Ḥa Lan, Pháp th́ trách nhiệm từ vĩ tuyến 16 trở vào. Pháp được dịp tái vơ trang và bất ngờ đánh chiếm lới miền Nam và miền Trung, bắt đầu trả thù, bắn giết những người chống đối. Với lập trường tổ quốc trên hết, các đảng phái quốc gia như ựới Việt Quốc Dân đảng, Việt Nam Quốc Dân đảng, Đại Việt Dân Chính đảng..., bắt buộc phải liên kết với chính phủ Việt Minh để chống xâm lăng, tham gia chính phủ lâm thời. Sự hiện diện của quân đội Tưởng Giới Thạch tới miền Bắc càng làm tăng thêm uy thế của các đảng phái này nên Hồ Chí Minh không thể toàn quyền thao túng trong chính phủ liên hiệp và bắt đầu dùng những thủ đoạn để tranh giành quyền lực. Chính sách của Hồ Chí Minh lúc đó đặt ra 3 đối tượng kẻ thù là: quân đội Tưởng Giới Thạch, quân đội Pháp và các đảng phái quốcgia. Một mặt liên hiệp nửa vời với phe quốc gia, một mặt Hồ Chí Minh t́m cách đẩy lui quân đội Tưởng Giới Thạch để làm giảm hiệu năng, mất chỗ dựa của phe quốc gia, loại họ dần dần rồi sau cùng mới chống lại Pháp (17). Nhưng đáng tội nhất là Hồ Chí Minh giải quyết mưu đồ này bằng cách kưÏ kết với Pháp (đại diện là Sainteny). Tạm ước Sơ Bộ ngày 6/3/1946 cho phép Pháp công khai trở lại Đông Dương một cách chính thức. Khi quân đội Pháp rầm rộ kéo quân ra miền Bắc th́ quân đội của Tưởng Giới Thạch phải rút về và Hồ Chí Minh bắt đầu đàn áp phe quốc gia khiến cho các lănh tụ như Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam... phải chạy sang Trung Hoa lánh nạn. Hồ Chí Minh đă áp dụng những hành động vu khống cho các đảng phái quốc gia là Việt gian thổ phỉ, là phản động để bắt bớ và thủ tiêu không biết bao nhiêu người. Tất cả các đảng phái không theo CS đệ tam đều bị Hồ Chí Minh ra lệnh tàn sát, ngay cả những người theo phe CS đệ tứ: - tới miền Bắc: các đảng viên cao cấp của Việt Nam Quốc Dân đảng đều bị thủ tiêu như ông Nguyễn Thế Nghiệp, ông bà Nguyễn Ngọc Sơn, Đào Chu Khái,... Cụ Nguyễn Hải Thần bị quân đội Việt Minh đánh úp tới trụ sở ở phố Ḷ Lợn (Hà Nội) sau khi ông lên tiếng tố cáo sự độc tài của đảng CS và Việt Minh. Hồ Chí Minh c̣n ra lệnh lùng bắt các thành viên của Việt Cách dọc theo biên giới Hoa Việt, ai không theo Việt Minh đều bị mang vào rừng thủ tiêu. - tới miền Nam: các lănh tụ chống lại Việt Minh đều bị vu cáo là Việt gian và đem ra cầu Bến Phân ở Hạnh Thông Tây hạ sát, trong đó có Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch thuộc Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất (do đức Huỳnh Giáo Chủ cùng phe đệ tứ quốc tế sáng lập, qui tụ các đoàn thể Việt Nam Quốc Dân đảng, Phật Giáo Ḥa Hảo, Cao Đài, Tịnh Độä Cư Sĩ, Liên Đoàøn Thanh Niên Tiền Phong...) Riêng nhóm đệ tứ quốc tế, hầu hết các lănh tụ đều bị sát hại: Phạm Văn Hùm, Hồ Văn Ngà, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Chánh, Trần Văn Sĩ, Phan văn Ḥa, Nguyễn Văn Sổ, Nguyễn Văn Tiên, Huỳnh Văn Soi, Nguyễn Văn Bách... Về phía Phật Giáo Ḥa Hảo, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ đă tổ chức thật qui mô một cuộc biểu t́nh đ̣i độc lập tại Cần Thơ vào ngày 8/9/1945. Quân đội, công an cảnh sát được lệnh đàn áp và giải tán đoàn biểu t́nh, bắn xả vào dân. Đoàn biểu t́nh đă rút lui trong hỗn loạn v́ không có súng tự vệ. Tiếp theo, Ủy Ban Hành Chánh tỉnh tung ra chiến dịch truy lùng gắt gao các cán bộ PGHH, khám đường Cần Thơ không đủ chỗ để giam. Nhiều cán bộ cao cấp đă bị xử tử như Huỳnh Thành Mậu, Trần Văn Hoành, Trần Văn Soái, Nguyễn Xuân Thiệp; một số nhân vật khác như Chung Bá Khanh, Đỗă Hữu Thiều, Vơ Văn Thời... bị neo dưới sông cho chết ngộp. Riêng tới Long Xuyên, phe CS đă tiến hành những cuộc khủng bố ác liệt, số người bị chết lên đến hàng chục ngàn người. - tới miền Trung: nhiều nhà ái quốc không chịu tham gia CS đệ Tam đă bị thủ tiêu như các cụ Phạm Quỳnh, Ngô Đ́nh Khôi, Ngô Đ́nh Nguyên, Vơ Như Nguyên, Phan Thúc Ngô, Tôn Thất Đạt, Nguyễn Bá Trác,... Tất cả đều bị giết một cách tàn nhẫn (18). Tạm kết Sau những cuộc tàn sát đẫm máu, Hồ Chí Minh và đảng CSVN đuổi được giặc Pháp nhưng chỉ giành được quyền thống trị tới miền Bắc. Hiệp ước 1954 ngăn đôi đất nước, giới hạn quyền lực của đảng CSVN ở miền Bắc nhưng không giới hạn được ḷng tham của Hồ Chí Minh khi nh́n về miền Nam, một miền đất trù phú. Và cứ thế mà đi, cứ tiếp tục phục vụ cho chủ nghĩa bành trướng của đệ tam quốc tế, Hồ Chí Minh đă hạ lệnh Nam Tiến bằng mọi cách. Với khẩu hiệu "Sinh Bắc Tử Nam", con đường "bác" đi (là con đường bi đát) đă vùi thây không biết bao thanh niên miền Bắc dọc theo đường ṃn Hồ Chí Minh, con đường mang tên "bác"; Chính sách tập kết sâu hiểm của "bác" đă làm cho bao nhiêu gia đ́nh ly tán, nhiều người c̣n ở lại trong Nam về sau đă bị CS ép làm nội tuyến; Tết Mậu Thân 1968 với những cuộc tàn sát dă man chắc hẳn không ai có thể quên... Trong đoạn cuối bài "Miền Nam trong trái tim người" c̣n nhắc đến di chúc của Hồ Chí Minh với nhiều chi tiết thêm rợn người: "Người đă đề ra trong di chúc những việc làm cần thiết khi miền Nam giải phóng: "điều đầu tiên là công việc đối với con người". Và đàn em của ông đă thực thi lời di chúc này, như lời của Nguyễn Khắc Viện tuyên bố sau khi công cuộc "giải phóng miền Nam" thành đat: "Có ba điều khẩn thiết cho miền Nam. Thứ nhất là cải tạo, thứ nh́ là cải tạo, thứ ba là cải tạo"!(19) --------------------------------------------------------------------- -- Chú thích: (1) "Nhà Cách Ma.ng Nguyễn Thế Truyền" của Đặng Hữu Thụ - trang 125; (2) "Mặt Thật" của Bùi Tín - trang 95; (3) Tài liệu của ông Hoàng Văn Chí: From colonialism to communism - A case history of Vietnam", New York: Frederick ể Praeger, 1964, tr. 40; (4) Hồi kưÏ "Cuộc Đời Cách Mạng" của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, Sài G̣n, 1968, tr.121; (5) Phan Bội Châu Niên Biểu; (6) "VN Quốc Dân Đảûng" của Hoàng Văn Đàøo, in lần thứ 2, Westminster, Cơ sở xuất bản Yên Bái, năm 1990, tr. 108; (7) "Giọt nước trong biển cả" của Hoàng Văn Hoan, Bắc Kinh, 1986, tập 1, tr. 105; (8) Hoàng Văn Đàøo, sddd, tr. 29; (9) Hoàng Văn Hoan, sddd, tr. 134, 135; (10) D.R.V, "Vietnam Studies" No 24, Hà Nội, Foreign languages Publishing House, 1970, tr. 129; (11) "Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên" của Vơ Nguyên Giáp, Hà Nội: nxb Quân ựội Nhân Dân, 1975, tr. 61, 62; (12) "Giọt nước trong biển cả" của Hoàng Văn Hoan, Bắc Kinh, 1986, tập 1, tr. 237; (13) "Histoire du Vietnam de 1940 à 1952" của Philippe Devillers, Paris, Editions du Seuil, 1952, tr. 103; (14) Những Bí ẩn Lịch Sử ựàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam của Lữ Giang, tr. 132; (15) Hoàng văn Đàøo, sddd, tr. 213; (16) Robert Shaplen, "The enigma of Ho Chi Minh, The Reporter, ngày 27/1/1955, tr. 13; (17) Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Hà Nội, nxb Sự Thật, tr. 560; (18) "Cụ Vơ Bá Hạp và phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20" của GS Nguyễn LưÏ Tưởng; (19) Tập Trung Học Tập Cải Tạo của Bửu Lịch, báo Việt Nam Dân Chủ số 31, tr. 15.

TỰ-DO DÂN-CHỦ SẼ TOÀN THẮNG.



-- (tosu_cs@yahoo.com), June 18, 2004.

Response to LĂ€M MỘT VĂŒ SAO

TO-QUOC DANH DU TRACH NHIEM



-- Nong bi dai' (vietnamcongsans@yahoo.com), June 18, 2004.

Moderation questions? read the FAQ